Bản án 20/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 20/2019/HS-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 18 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2019/TLST-HS, ngày29/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/QĐXXST-HS ngày 24/6/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Tấn P; sinh năm 1977; Tên gọi khác: không; nơi sinh: tỉnh Quảng Nam; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Tổ dân phố 05, thị trấn Đ, huyện l, tỉnh Đắk Nông; Trình độ văn hoá: 07/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: làm nông; con ông Nguyễn K (đã chết) và bà Nguyễn Thị T (đã chết); vợ Trần Thị Kim L, sinh năm 1984; tiền án: Ngày 17/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil xử phạt 8.000.000 đồng về tội “ Đánh bạc”; tiền sự: Ngày 27/12/2018 bị Hạt kiểm lâm huyện Đắk Mil xử phạt hành chính 7.500.000 đồng về hành vi mua lâmsản trái với quy định của Nhà nước. Biện pháp ngăn chặn áp dụng: Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày bị khởi tố (bị cáo có mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Tôn Quốc T, sinh năm 1983 (vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

2. Bà Trần Thị Kim L, sinh năm 1984 (có mặt)

Địa chỉ: Tổ dân phố 05, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Nguyễn Tấn P bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Ngày 29/01/2019, Nguyễn Tấn P nảy sinh ý định mua pháo về để sử dụng trong dịp tết Nguyên đán nên đã gặp đối tượng tên Mau (chưa xác định được nhân thân lai lịch, theo lời khai là người Campuchia) để nhờ mua pháo về đốt trong dịp tết Nguyên đán thì được đối tượng tên Mau đồng ý. Chiều ngày 01/02/2019, đối tượng tên Mau điện thoại báo cho Nguyễn Tấn P biết là đã có pháo và hẹn gặp nhau tại khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia thuộc khu vực đồn Biên phòng cửa khẩu Thuận An, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông để lấy pháo. Khoảng 16h 00p cùng ngày Nguyễn Tấn P điều khiển xe mô tô biển số 92N - 2686 (xe của Nguyễn Tấn P) đi vào khu vực biên giới Việt Nam tiếp giáp Campuchia gặp đối tượng tên Mau tại khu vực cột mốc 49/6 thuôc địa giới hành chính xã Thuận An, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông và được đối tượng M giao cho Nguyễn Tấn P nhận 01 thùng giấy bên trong có 06 hộp pháo loại 16 ống giấy, hình trụ tròn dài 15cm, đường kính 03cm và trả cho M 2.050.000 đồng (Hai triệu không trăm năm mươi nghìn đồng). Sau đó Nguyễn Tấn P chở thùng pháo nêu trên về nhà, đến 16h30p cùng ngày, Nguyễn Tấn P bắt đầu điều khiển xe mô tô biển số 92N3 – 2686 chở thùng pháo đi về thì bị lực lượng Bộ đội Biên phòng cửa khẩu Thuận An bắt quả tang cùng tang cùng tang vật tại khu vực cột mốc 49/6 thuôc địa giới hành chính xã Thuận An, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

Tại bản kết luận giám định số 1270/CO9B ngày 22/02/2019 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành Phố Hồ Chí Minh kết luận khối hình chữ nhật kích thước (12cm x 12cm x 15cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 16 ống giấy hình trụ tròn dài 15cm, đường kính 3cm gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu.

Tổng khối lượng 6,8kg.

Tại Bản cáo trạng số: 18/CTr–VKS ngày 24 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil truy tố bị cáo Nguyễn Tấn P về tội “vận chuyển hàng cấm” theo khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự 2015.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tấn P đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil truy tố bị cáo về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự 2015 là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil đã phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Tấn P về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil đã thu giữ sau đó quyết định tiêu hủy 06 khối hình chữ nhật kích thước (12cm x 12cm x 15cm) bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 16 ống giấy hình trụ tròn dài 15cm, đường kính 3cm được xác định là pháo nổ.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen có gắn thẻ sim số 0847.511.415 bị cáo Nguyễn Tấn P đã sử dụng vào việc phạm tội.

- Tịch thu, sung công quỹ nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Havico biển số 92N3 – 2686 và 01 giấy đăng kí xe mô tô số 0079931 mang tên Nguyễn Tấn P do bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

Tại phiên tòa, bị cáo không bào chữa, tranh luận gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tung khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk Mil, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi khách quan và hậu quả do hành vi khách quan của bị cáo gây ra, bị cáo khai nhận như sau: Bị cáo Nguyễn Tấn P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, lời khai của những người tham gia tố tụng khác tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào lúc 16 giờ, ngày 29/01/2019, tại khu vực cột mốc 49/6 thuộc địa giới hành chính xã Thuận An, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông Nguyễn Tấn P đang vận chuyển trái phép 06 khối hình chữ nhật kích thước (12cm x 12cm x 15cm) bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 16 ống giấy hình trụ tròn dài 15cm, đường kính 3cm được xác định là pháo nổ có trọng lượng 6,8 kilôgam thì bị lực lượng Bộ đội Biên phòng cửa khẩu Thuận An bắt quả tang cùng tang vật.

Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian,hành vi phạm tội của bị cáo và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Xét quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên toà là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Tấn P đã phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 191 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tang trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các Điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;

…”

[3] Đánh giá tính chất vụ án:

Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế về sự độc quyền quản lý của Nhà nước có chức năng sản xuất, buôn bán, kinh doanh. Bị cáo là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết được việc hành vi mua bán, vận chuyển 6,8 kilogam pháo nổ tại xã Thuận An, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông là loại hàng hóa mà Nhà nước cấm là vi phạm pháp luật. Nhưng với ý thức xem thường pháp luật vì muốn có tiền tiêu xài phục vụ lợi ích cá nhân và mục đích sử dụng bị cáo đã lợi dụng sự buôn lỏng trong việc quản lý của các cơ quan chức năng để thực hiện hành vi vận chuyển trái phép pháo nổ có trọng lượng 6,8 kilôgam nhằm thu lợi bất chính, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Do đó, để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần có một mức án thật nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và hậu quả tội phạm để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt cho xã hội và biết tôn trọng pháp luật. Đồng thời đây còn là bài học cho những ai có ý định xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế về sự độc quyền quản lý của Nhà nước để trục lợi.

[4] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 17/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông xử phạt 8.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự và ngày 27/12/2018 bị cáo bị Hạt kiểm lâm huyện Đ xử phạt hành chính 7.500.000 đồng về hành vi mua Lâm sản trái với các quy định của Nhà nước bị cáo (chưa thực hiện xong nghĩa vụ nộp phạt) nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, sửa chữa mình mà ngày 29/01/2019 tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo 01 tiền án về tội đánh bạc và 01 tiền sự về hành vi mua lâm sản trái với quy định của Nhà nước, đến nay chưa được xoá án tích do chưa thực hiện xong nghĩa vụ nộp phạt. Ngày 29/01/2019 tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội vận chuyển hàng cấm. Do đó cần phải áp dụng tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội đây là tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ phần nào trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Milđã thu giữ sau đó quyết định tiêu hủy 06 khối hình chữ nhật kích thước (12cm x 12cm x 15cm) bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 16 ống giấy hình trụ tròn dài 15cm, đường kính 3cm được xác định là pháo nổ là phù hợp nên cần chấp nhận.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Havico biển số 92N3 – 2686 và 01 giấy đăng kí xe mô tô số 0079931 mang tên Nguyễn Tấn P bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu bán sung công quỹ nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen có gắn thẻ sim số 0847.511.415 bị cáo Nguyễn Tấn P đã sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu bán sung công quỹ nhà nước là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tấn P phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với đề nghị về hình phạt của đại diện Viện kiểm sát: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ, tuy nhiên bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm nên mức hình phạt đề nghị áp dụng cho bị cáo là nhẹ, chưa đủ tính răn đe và giáo dục đối với bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử nghĩ cần xử phạt bị cáo mức hình phạt cao hơn thì mới tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi do bị cáo gây ra, đủ để bị cáo cải tạo, học tập trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; Điểm h khoản 1 Điều 52 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, sung công quỹ nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Havico biển số 92N3 – 2686 và 01 giấy đăng kí xe mô tô số 0079931 mang tên Nguyễn Tấn P do bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

- Chấp nhận trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk Mil đã thu giữ sau đó quyết định tiêu hủy 06 khối hình chữ nhật kích thước (12cm x 12cm x 15cm) bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 16 ống giấy hình trụ tròn dài 15cm, đường kính 3cm được xác định là pháo nổ.

- Tich thu sung công quỹ Nhà nước của bị cáo Nguyễn Tấn P 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen có gắn thẻ sim số 0847.511.415 đã sử dụng vào việc phạm tội.

(Vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/5/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk Mil).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Tấn P phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ bản án trong hạn mười lăm ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

321
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:20/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về