Bản án 206/2018/HNGĐ-ST ngày 29/06/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 206/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 132/2018/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2018 về việc “Tranh chấp HNGĐ, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 220/2018/QĐXXST-DS ngày 28/5/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Ngọc Q; sinh năm 1987; Cư trú: Tổ 01, ấp S, xã V, huyện T, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ; sinh năm 1983. Cư trú: Tổ 05, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà Q có mặt, ông Đ vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai cùng ngày 19/4/2018 cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo của bà Nguyễn Ngọc Q trình bày: Hôn nhân giữa bà với ông Nguyễn Văn Đ do cha mẹ hai bên định đoạt đi đến hôn nhân, tổ chức đám cưới năm 2008, có đăng ký kết hôn tại xã P vào ngày 22/8/2008. Sau khi kết hôn, vợ chồng bà sống tại bên chồng tại xã P. Thời gian đầu sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân ông Đ không chăm lo cho gia đình, vợ chồng bà thường xuyên cãi nhau. Ông Đ đi làm thuê không đưa tiền cho bà để lo cho gia đình, bà đã khuyên ông Đ nhiều lần nhưng không được. Bà và ông Đ ly thân từ năm 2017 đến nay. Bà yêu cầu ly hôn với ông Đ.

Về con chung: Bà và ông Đ có 01 con chung Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 17/2/2011. Hiện nay cháu H đang sống với bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Nguyễn Văn Đ theo quy định nhưng ông Đ vẫn không có mặt theo văn bản triệu tập của Tòa án, mặc dù trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án có phân công cán bộ đến tại nhà của ông Đ làm việc nhưng vẫn không gặp ông Đ để ghi lời khai.

Chứng cứ thu thập được: Tại biên bản làm việc ngày 24/5/2018 được bà Nguyễn Thị N cho biết: Bà là mẹ ruột của ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Ngọc Q là vợ ông Đ. Sau khi ông Đ, bà Q đám cưới thì vợ chồng ông Đ, bà Q sống tại xã P (bên chồng). Bà thừa nhận trong thời gian ông Đ còn chung sống vơi bà Q thì ông Đ có đi chơi với bạn bè, ít quan tâm tới vợ con, bà cũng nhiều lần khuyên ông Đ nên quan tâm đến gia đình. Hiện nay ông Đ đã lo làm ăn. Ông Đ, bà Q ly thân từ năm 2017 đến nay. Trong thời gian ly thân, gia đình hai bên chưa đứng ra hàn gắn. Theo bà nhận thấy ông Đ vẫn còn thương vợ nhưng không đồng ý đến Tòa, bà xin Tòa cho thêm thời gian để bà động viên hai đứa về sống lại với nhau.

Tại biên bản xác minh ngày 25/5/2018 được ông Lê Trường C – Phó ấp P cho biết: Ông Nguyễn Văn Đ là chồng của bà Nguyễn Ngọc Q. Ông Q hiện vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương.

Tại phiên tòa bà Q bảo lưu ý kiến. Riêng ông Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử (HĐXX), xét xử vắng mặt ông Đ theo thủ tục chung.

Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị HĐXX:

Về hôn nhân: Bà Q, ông Đ có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P. Xét đây là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, việc mâu thuẫn giữa bà Q và ông Đ không thể hàn gắn nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà Q được ly hôn với ông Đ.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 17/2/2011. Hiện nay con chung đang sống với bà Q. Bà Q yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Xét thấy, từ khi ly thân đến nay thì con chung đang sống với bà Q. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của bà Q.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Q xác định không có. Nếu sau này ông Đ có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Bà Nguyễn Ngọc Q khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn Đ. Đồng thời, ông Đ cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Đ được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà Q, ông Đ do cha mẹ định đoạt, có tổ cức đám cưới vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P vào ngày 22/8/2008 theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu của bà Q xin ly hôn với ông Đ HĐXX xét thấy thời gian ly thân giữa bà Q, ông Đ đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Việc bà Q trình bày ông Đ, không quan tâm đến vợ con phù hợp với lời trình bày của bà Nguyễn Thị N (mẹ ruột ông Đ). Trong thời gian ly thân gia đình hai bên cũng chưa hàn gắn. HĐXX xét thấy mâu thuẩn của bà Q và ông Đ không thể hàn gắn nên HĐXX chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà Q theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Bà Q, ông Đ có 01 con chung Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 17/2/2011. Hiện nay cháu H đang sống với bà. Bà Q yêu cầu tiếp tục nuôi con chung. Xét thấy, từ khi ly thân đến nay thì con chung đang sống với bà Q. Cháu H cũng trình bày nguyện vọng muốn được tiếp tục sống chung với bà Q. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, HĐXX nghĩ nên chấp nhận để cho bà Q tiếp tục nuôi dạy con chung là phù hợp.

[5] Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà Q không yêu cầu cấp dưỡng nên HĐXX công nhận sự tự nguyện của bà Q.

HĐXX cũng giải thích cho các đương sự biết: Bà Q cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Q xác định không có nên HĐXX không xem xét giải quyết. Nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện khác.

[7] Về án phí: Bà Q là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân. Các bên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm b, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Ngọc Q.

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Ngọc Q được ly hôn với ông Nguyễn Văn Đ.

Về con chung: Bà Q được tiếp tục nuôi dạy con chung Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 17/2/2011.

Bà Q cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà Nguyễn Ngọc Q phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002931 ngày 19/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. (bà Q đã nộp đủ)

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (29/6/2018) bà Q có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn này đối với ông Đ được tính kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 206/2018/HNGĐ-ST ngày 29/06/2018 về ly hôn

Số hiệu:206/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về