Bản án 210/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 210/2017/HSST NGÀY 28/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 28 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 186/2017/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế H (tên gọi khác: H1), sinh năm 1973 tại Hải Phòng; đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: phường T, Quận H, Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; con ông Nguyễn Thế H và bà Bùi Thị L (đều đã chết), có vợ là Trần Thị Yến, sinh năm 1978; tiền án, tiền sự: Có 02 tiền án (đã xóa); bị bắt tạm giữ ngày 08/5/2017, tạm giam ngày 11/5/2017; có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Thế H bị Viện kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 23h10’ ngày 05/5/2017, tổ công tác thuộc Công an phường Kênh Dương làm nhiệm vụ tại khu vực ngõ 292 Lạch Tray, Kênh Dương, Lê Chân, Hải Phòng phát hiện Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1989; trú tại: Đường Đ, phường Đ1, quận H, Hải Phòng ngồi trên xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 29G1-575.11 ở khu vực trước cửa nhà số 120/292 Lạch Tray có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra trong cốp xe máy có 01 túi nilon màu đen bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá nên đã đưa T cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại Công an phường Kênh Dương, Nguyễn Ngọc T khai: T với Nguyễn Thế H là bạn bè quen biết ngoài xã hội, khoảng 22h30’ ngày 05/5/2017 H đưa xe máy BKS: 29G1-575.11 cho T đi đến ngõ 292 Lạch Tray để xin số điện thoại của chủ nhà mà trước đó T và H hỏi thuê, T không biết số ma túy trong cốp xe là của ai. 

Công an phường Kênh Dương đã triệu tập Nguyễn Thế H đến trụ sở để giải quyết. Tại Công an phường Kênh Dương, H khai: Khoảng 22h ngày 05/5/2017, H đi xe máy BKS: 29G1-575.11 vào ngõ 380 Tô Hiệu gặp và mua của 01 phụ nữ không biết lai lịch 500.000đồng ma túy đá với mục đích để sử dụng và bán lại cho đối tượng nghiện kiếm lời. Sau khi mua xong, H cất gói ma túy vào cốp xe máy rồi đi về nhà nghỉ Sơn Hà ở đường Ngô Gia Tự, Quận Hải An, Hải Phòng chở T đi ăn tối, ăn xong cả hai quay lại nhà nghỉ. H đưa xe máy cho T đi và bảo đến ngõ 292 Lạch Tray để xin số điện thoại của chủ nhà mà T và H đã hỏi thuê, H vẫn để gói ma túy trong cốp xe và không nói cho T biết trong cốp xe có ma túy. Trong lúc H đang ngồi tại Công an phường Kênh Dương thì Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1996; trú tại: Số 8/87/51 Dư Hàng, Quận Lê Chân, Hải Phòng nhắn tin vào số điện thoại của H hỏi mua ma túy, H nhắn tin lại hỏi T mua bao nhiêu tiền ma túy thì T nhắn tin lại là mua 200.000đồng và trước đó H đã bán cho T 02 lần, mỗi lần 200.000đồng, việc giao dịch mua bán ma túy tại đầu ngõ nhà H.

Ngày 06/5/2017, T bị triệu tập đến Công an phường Kênh Dương đã khai nhận: Ngày 06/5/2017, T nhắn tin hỏi H mua 200.000đồng ma túy đá để sử dụng nhưng chưa giao dịch thì bị bắt giữ. Trước đó khoảng 1 tháng, T đã điện thoại và 02 lần mua ma túy đá của H, mỗi lần mua 200.000đồng và việc giao dịch mua bán tại đầu ngõ nhà H ở số 199 tổ 9 Thành Tô, Hải An, Hải Phòng.

Tại Bản kết luận giám định số 661/PC54(MT) ngày 10/5/2017 của Phòng kĩ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng trong túi nilon thu giữ của Nguyễn Thế H có trọng lượng 1,3039gam có 0,9302gam là Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, ban đầu Nguyễn Thế H khai nhận phù hợp với lời khai của Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1989; trú tại: Số 23/8/358 Đà Nẵng, phường Đông Hải 1, Quận Hải An, Hải Phòng và phù hợp với lời khai của Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1996; trú tại: 8/87/51 Dư Hàng, Quận Lê Chân, Hải Phòng phù hợp với đặc điểm vật chứng thu giữ. Sau đó H thay đổi lời khai và khai số ma túy trong cốp xe máy BKS 29G1-57511 không phải của H và H không biết của ai, H khai trước đó H có bán cho T 01 lần H nói là ma túy đá nhưng thực chất là phèn chua và ngày06/5/2017 T có nhắn tin hỏi mua 200.000đồng ma túy nhưng H chưa nhận lời.

Đối với hành vi 02 lần H bán ma túy cho Nguyễn Ngọc T tại ngõ 199 tổ 9 Thành Tô, Hải An, Hải Phòng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân đã có Công văn đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Hải An khởi tố vụ án và làm thủ tục chuyển vụ án cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân nhưng đến nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Hải An có công văn trả lời tạm dừng việc xác minh kiến nghị khởi tố đối với vụ án trên khi nào làm rõ sẽ xử lý sau nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân không đề nghị xử lý.

Đối với chiếc xe máy thu giữ của H, qua điều tra xác minh chủ sở hữu là của Châu Vân Tài, sinh năm 1994; trú tại: Tổ 62 khu 8 Hà Phong, Hạ Long, Quảng Ninh bị mất trộm năm 2016, khi mất xe Tài không trình báo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tách hồ sơ làm rõ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1989; trú tại: Số 23/8/358 Đà Nẵng, phường Đông Hải 1, Quận Hải An không biết H cất giấu ma túy trong cốp xe và Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1996; trú quán 8/87/51 Dư Hàng, Quận Lê Chân, Hải Phòng là đối tượng hỏi mua ma túy của H nhưng chưa kịp giao dịch thì H bị bắt giữ. Qua xét nghiệm cả hai đối tượng đều dương tính với ma túy nên Công an phường Kênh Dương đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho H do không xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân không có cơ sở đề điều tra.

Tại Cáo trạng số 210/CT-VKS ngày 28 tháng 11 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo H đã khai: Vào khoảng 8 giờ ngày 05/5/2017 bị cáo có sử dụng ma túy đá, số ma túy mà bị cáo sử dụng là do một bạn nghiện quen biết ngoài xã hội, không rõ tên, tuổi, địa chỉ cho bị cáo. Còn số ma túy đá mà cơ quan Công an thu giữ trong cốp xe máy BKS 29G1-57511 không phải của bị cáo, bị cáo cũng không biết là của ai. Trước đó, bị cáo đã bán cho T 01 lần, bị cáo nói là ma túy đá nhưng thực chất là phèn chua và ngày 06/5/2017 T có nhắn tin hỏi mua ma túy của bị cáo, bị cáo đã nhắn tin hỏi mua bao nhiêu tiền, T nhắn lại là mua 200.000đồng nhưng bị cáo chưa nhận lời. Đối với chiếc xe máy BKS 29G1-57511 mà cơ quan Công an thu giữ là của bạn ngoài xã hội không rõ địa chỉ, tên là Khoa đã gửi bị cáo giữ hộ khoảng một tuần trước khi bị bắt, khi gửi Khoa đưa cả đăng ký xe cho bị cáo nhưng không nói khi nào đến lấy lại xe.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế H phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý; áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thế H mức án từ 36 đến 42 tháng tù. Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, bản thân là nạn nhân của tệ nạn ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy lượng ma tuý còn lại sau giám định.

Tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Viettel V6303 thu giữ của Nguyễn Ngọc T, 01 điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của H.

Tiếp tục tạm giữ 01 chiếc điện thoại di động iphone 5 màu trắng; 01 đồng hồ điện tử đeo tay màu trắng và số tiền 3.020.000đ (Ba triệu, không trăm hai mươi nghìn đồng) thu giữ của H để đảm bảo thi hành án

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình nhưng căn cứ vào lời khai ban đầu của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy phù hợp với lời khai của Nguyễn Ngọc T là người mượn xe của bị cáo và lời khai của Nguyễn Ngọc T là người hỏi mua ma túy, phù hợp với nội dung bản cáo trạng, báo cáo bắt giữ, biên bản xác định tang vật, tang vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Nguyễn Thế H đã có hành vi cất giữ trái phép 1,3039g (Một phẩy ba không ba chín gam) tinh thể có trọng lượng Methamphetamine là 0,9302g (Không phẩy chín ba không hai gam) với mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Do vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thế H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy; làm suy thoái đạo đức, lối sống và là nguyên nhân làm phát sinh những tội phạm khác. Nhân thân bị cáo có 02 tiền án: Án số 255/1995/HSST ngày 02/7/1995 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 09 tháng tù về tội Đánh bạc; án số 383/2010/HSST ngày 19/3/2010 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử 36 tháng tù về tội Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Tuy cả hai tiền án trên đều đã được xóa án tích nhưng qua đó cũng cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật kém, bị cáo không lấy đó làm bài học để cải tạo rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần xét xử bị cáo một mức án nghiêm, bắt cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo không thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự thì bị cáo có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền. Hành vi của bị cáo có tính vụ lợi nên Hội đồng xét xử phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước.

Về xử lý vật chứng:

Cơ quan công an đã thu giữ 1,3039gam tinh thể có trọng lượng Methamphetamine là 0,9302gam. Sau khi lấy đi giám định, lượng còn lại xét là vật Nhà nước cấm lưu hành nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 điện thoại di động Viettel V6303 thu giữ của Nguyễn Ngọc T, 01 điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của H, xét là công cụ sử dụng vào việc giao dịch mua bán ma túy nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động iphone 5 màu trắng; 01 đồng hồ điện tử đeo tay mầu trắng và số tiền 3.020.000đồng thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ số tiền để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thế H phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý. Áp dụng: Khoản 1, 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế H 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 08 tháng 5 năm 2017.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 05 (Năm) triệu đồng để sung quỹ Nhà nước.

Kể từ ngày Bản án, Quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp Cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Về xử lý tang vật: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy lượng ma tuý còn lại sau giám định;

Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của bị cáo; 01 điện thoại di động Viettel V6303 thu giữ của Nguyễn Ngọc T;

Tiếp tục tạm giữ 01 chiếc điện thoại di động iphone 5 màu trắng; 01 đồng hồ điện tử đeo tay màu trắng và số tiền 3.020.000đ (Ba triệu, không trăm hai mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành án (Theo đúng Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24 tháng 11 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Buộc bị cáo Nguyễn Thế H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 210/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:210/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về