Bản án 210/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 210/2018/HS-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 11 năm 2018 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 218/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 240/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình T, sinh ngày 06/5/1993 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An; cư trú tại: Đường T, phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nhân viên phục vụ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình T, sinh năm 1967 và bà Vũ Thị H, sinh năm 1968; chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam, tạm giữ ngày 01/9/2018; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Cao Văn D, sinh năm 1968 và bà Phạm Thị Hải Y, sinh năm 1971; cư trú tại: Đường P, phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: T là nhân viên của quán trà sữa Hải Yến tại địa chỉ: Đường P, phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Cao Mạnh D và bà Phạm Thị Hải Y làm chủ. Quá trình làm việc, do cần tiền để tiêu xài nên T nảy sinh ý định trộm cắp. Từ tháng 8/2018 cho đến khi bị bắt với cùng một thủ đoạn: Quan sát thấy bà Y thường để xâu chìa khóa của tủ đựng tiền trên bàn đặt tại phòng khách. Lợi dụng lúc bà Y mất cảnh giác, T lấy chìa khóa tủ, lẻn vào phòng phía sau mở tủ để lấy trộm tiền, sau đó trả lại chìa khóa về vị trí cũ; T đã bốn lần chiếm đoạt tổng cộng số tiền 103.000.000 đồng, cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào buổi tối ngày 17/8/2018, T lấy trộm 05 xấp tiền, mệnh giá 500.000 đồng. Sau khi hết giờ làm việc, T về phòng và kiểm đếm biết mình chiếm đoạt được số tiền 50.000.000 đồng;

Lần thứ hai: Khoảng 01 tuần sau lần trộm đầu, T lấy trộm 02 xấp tiền mệnh giá 500.000 đồng. Lần này T lấy số tiền 21.000.000 đồng;

Lần thứ ba: Khoảng hai ngày sau, T lấy trộm 03 xấp tiền mệnh giá 500.000 đồng, chiếm đoạt 30.000.000 đồng.

Lần thứ tư: Vào tối ngày 28/8/2018, T lấy trộm 04 tờ mệnh giá 500.000 đồng, tổng số tiền 2.000.000 đồng;

Do bị mất tiền nhiều lần nên ông D đã lắp camera theo dõi. Tối ngày 31/8/2018, ông D quan sát camera biết được T lấy trộm tiền nên đến Công an Phường 1, quận Gò Vấp trình báo.

Quá trình điều tra, Nguyễn Đình T khai nhận hành vi phạm tội và cùng với gia đình thỏa thuận bồi thường cho ông Cao Văn D và bà Phạm Thị Hải Y.

Bị hại xác nhận đã nhận lại được số tiền bị chiếm đoạt và không còn bất cứ yêu cầu nào trong vụ án.

Bản Cáo trạng số 213/Ctr-VKS ngày 31/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố Nguyễn Đình T tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, trình bày lời luận tội, đánh giá tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị:

Tuyên bố Nguyễn Đình T phạm tội Trộm cắp tài sản; áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b và s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo không tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án khoan hồng vì đã nhận thức được hành vi sai phạm của mình và quyết tâm sửa chữa, không vi phạm pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tố tụng:

Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Kiểm sát viên thực hiện hành vi, quyết định tố tụng, thu thập chứng cứ, tài liệu theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng, việc thu thập chứng cứ, tài liệu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

 [2] Về nội dung:

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Theo đó, bị cáo là nhân viên của quán Trà sữa Hải Yến tại địa chỉ: Đường P, phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Do thấy bà Y thường để xâu chìa khóa của tủ đựng tiền trên bàn đặt tại phòng khách nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp. Từ tháng 8/2018 cho đến ngày 28/8/2018 với cùng một cách thức: Quan sát, lợi dụng lúc bà Y sơ hở, bị cáo lấy chìa khóa tủ, lẻn vào phòng phía sau mở tủ để lấy trộm tiền, sau đó trả lại chìa khóa về vị trí cũ; T đã bốn lần chiếm đoạt tổng cộng số tiền 103.000.000 đồng của ông D, bà Y.

Hội đồng xét xử xét thấy, lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với bản kết luận điều tra vụ án hình sự và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Do đó, việc Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của người khác để lén lút trộm cắp. Hành vi của bị cáo đã vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội, thực hiện một cách cố ý để chiếm đoạt bất hợp pháp tài sản của người khác. Do đó cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bồi thường cho người bị hại, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử không áp dụng khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để phạt tiền đối với bị cáo.

 [3] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo và gia đình của bị cáo đã bồi thường cho người bị hại. Người bị hại đề nghị vắng mặt tại phiên tòa và không có yêu cầu trong vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét thêm.

 [4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Nguyễn Đình T phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, các điểm b và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017,

Xử phạt Nguyễn Đình T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01 tháng 9 năm 2018.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng, nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 210/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:210/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về