Bản án 211/2018/HSST ngày 07/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 211/2018/HSST NGÀY 07/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 212/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 217/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Văn Đ, sinh năm 1979 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu xx, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ văn hoá (học vấn):6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn H – Sinh năm 1954 và Trần Thị L (Đã chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Thị X (Đã ly hôn năm 2016); từ tháng 12/2016 cho đến nay Bùi Văn Đ sống chung với chị Dương Thị T không có đăng ký kết hôn và có chung với nhau 01 con tên: Dương Bùi Thu T – Sinh năm 2017, tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 30 tháng 5 năm 2018 đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Dương Thị T, sinh năm 1982, trú tại: tiểu khu V, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La. Chỗ ở hiện nay: Tiểu khu xx, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 30/5/2018, Bùi Văn Đ, sinh năm 1979 có hộ khẩu thường trú tại tiểu khu 67 thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu , tỉnh Sơn La. Điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Hon da – Blade BKS: 26G1 – 164.35 (chiếc xe Đ mượn của chị Dương Thị T, là người đang chung sống không có đăng ký kết hôn) đi đến tiểu khu Chiềng Đi, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến nơi, Đ gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết khoảng 40 tuổi, Đ hỏi và mua được của người đó 01 gói Heroine bên ngoài gói bằng mảnh giấy màu trắng có chữ viết, giá 92.000 đồng. Đ cất giấu gói Heroine trong lòng bàn tay trái. Sau đó Đ điều khiển xe máy đi về. Trên đường về Đ gặp tổ công tác Công an huyện Mộc Châu đang làm nhiệm vụ yêu cầu Đ dừng xe kiểm tra. Quá trình kiểm tra Đ tự giác giao nộp 01 gói giấy màu trắng có chữ viết bên trong đựng 0,13 gam chất bột màu trắng là Heroine. Đ khai nhận đó là Heroine của Đ cất giấu để sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật. Tạm giữ của Đ 01 xe máy nhãn hiệu Hon Da – Blade, màu đỏ đen, BKS – 26G1 – 164.35 Ngày 30/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và Phòng PC54 Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng chất ma tuý nghi là Heroine thu giữ của Đ là 0,13 gam. Lấy 0,10 gam làm mẫu gửi giám Đ, mẫu ký hiệu Đ.

Tại kết luận giám định số 717 ngày 04/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu là ma túy; loại chất Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam; tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,13 gam, loại Heroine”.

Cáo trạng số 171/CT-VKSMC ngày 27/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Bùi Văn Đ về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt bị cáo như sau:

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn Đ từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,03 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy của Bùi Văn Đ, ngày 30/5/2018.

Tuyên trả cho chị Dương Thị T chiếc xe máy nhãn hiệu Hon da – Blade BKS: 26G1 – 164.35.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên toà, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 13 giờ 00 phút ngày 30/5/2018; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám Đ, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám Đ, lời khai của những người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 30/5/2018, Bùi Văn Đ đã có hành vi cất giấu 0,13 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho việc nghiện hút của bản thân. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét, bị cáo phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,03 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy của Bùi Văn Đ, ngày 30/5/2018, xét là vật Nhà nước cấm tàng trữ, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Hon Da -Blade màu đen đỏ BKS – 26G1 – 164.35 là tài sản của chị Dương Thị T, việc bị cáo Đ sử dụng xe máy trên để đi mua ma túy chị Dương Thị T hoàn toàn không biết và không liên quan. Xét chiếc xe máy là tài sản hợp pháp của chị Dương Thị T, cần tuyên trả lại cho chị Dương Thị T quản lý, sử dụng.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông là người đã bán Heroine cho bị cáo Bùi Văn Đ ngày 30/5/2018 (như bị cáo khai). Quá trình điều tra không xác Đ được lai lịch, địa chỉ của người này, do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn lại trên 45 ngày, do đó Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn Đ 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày bị tạm giữ 30/5/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Về vật chứng của vụ án: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,03 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy của Bùi Văn Đ, ngày 30/5/2018.

Tuyên trả cho chị Dương Thị T 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Hon Da - Blade màu đen đỏ BKS – 26G1 – 164.35.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Bùi Văn Đ phải chịu là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 211/2018/HSST ngày 07/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:211/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về