Bản án 21/2017/HS-ST ngày 28/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SÔNG CẦU, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 21/2017/HS-ST NGÀY 28/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 28 tháng 07 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2017/HSST ngày 27 tháng 06 năm 2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2017/HSST- QĐ ngày 11 tháng 07 năm 2017, đối với bị cáo:

Đặng Ngọc V, sinh năm 1982; Nơi sinh: Khu phố LP, Thị trấn CT, huyện TA, tỉnh Phú Yên; Nơi cư trú: Khu phố LP, Thị trấn CT, huyện TA, tỉnh Phú Yên;  Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 05/12; Quốc tịch Việt Nam;

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Đặng Ngọc T, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1955; Con: 02 con, lớn nhất sinh năm 2010 nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 27/5/2017 tại nhà tạm giữ Công an thị xã Sông Cầu, có mặt.

* Người bị hại:  Vợ chồng ông Lê Văn  D,  sinh năm 1964; bà  Đoàn Thị L , sinh năm 1969; Cùng trú tại: Khu phố PLĐ, Phường XĐ, thị xã S, Phú Yên, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 13/10/2016, sau khi Đặng Ngọc V thực hiện hành vi trộm cắp xe môtô 78H8 - 3810 của người khác tại thôn PS, xã ANĐ, huyện TA, V điều khiển xe chạy đến ngã 3 thôn TS, xã XT 2, thị xã S theo đường ĐT642 để lên huyện ĐX. Trên đường đi, khi đến thôn Hảo Danh, xã Xuân Thọ 2, thị xã Sông Cầu, do xe hết xăng nên V dắt xe đi bộ một đoạn rồi bỏ lại chiếc xe mô tô BKS78H8-3810. Lúc này, V phát hiện xe môtô biển số 78F6- 6215 của ông Lê Văn D đang dựng tại bụi cây, không có người trông coi nên V lén lút dùng chìa khóa xe lấy trộm được ở huyện TA để mở ổ khóa điện xe 78F6-6215, sau đó V  điều khiển xe 78F6-6215 chạy trốn. Ông Lê Văn D báo cáo sự việc mất tài sản cho Công an thị xã Sông Cầu điều tra làm rõ. Đến ngày 27/12/2016, V điều khiển xe môtô của ông D đến nhà anh Phạm Minh C ( trú: thôn MP 2, xã AH, huyện TA) chơi thì bị Công an xã An Hiệp kiểm tra, tạm giữ xe môtô 78F6-6215. Ngày 27/05/2017, Đăng Ngọc V bị bắt theo quyết định truy nã số 03 ngày 23/05/2017 của công an thị xã Sông Cầu.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐG ngày 24/3/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS thị xã Sông Cầu kết luận: 01 (một) xe môtô biển số 78F6 - 6215 có giá trị là 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng).

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu DRIN, biển số 78F6-6215 Cơ quan CSĐT đã trao trả cho người bị hại Lê Văn D.

- 01 (một) chìa khóa xe CQ CSĐT Công an huyện Tuy An tạm giữ để xử lý.

- 01(một) xe mô tô nhãn hiệu SUVINA, biển số 78H8-3810 mà Đặng Ngọc V   trộm cắp tại địa bàn huyện TA, CQCSĐT Công an thị xã Sông Cầu đã chuyển cho CQCSĐT Công an huyện Tuy An giải quyết theo thẩm quyền.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu;

Người bị hại: Vợ chồng ông Lê Văn D, bà Đoàn Thị L trình bày: Ngày 13/10/2016  vợ chồng ông D dựng xe môtô biển số 78F6- 6215 ở bụi cây để đi làm rẫy, thuộc địa bàn thôn HD, xã XT 2, thị xã S. Sau khi quay lại lấy xe thì phát hiện bị mất xe. Ông Lê Văn D báo cáo sự việc mất tài sản cho Công an thị xã Sông Cầu điều tra làm rõ. Hiện vợ chồng ông Lê Văn D, bà Đoàn Thị L đã nhận lại tài sản xe môtô biển số 78F6- 6215 và không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản nào khác.

Bản cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 26 tháng 06 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sông Cầu, Phú yên, truy tố bị cáo: Đặng Ngọc V về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đặng Ngọc V về tội “ Trộm cắp tài sản”  theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Căn cứ vào tính chất mức độ phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm p,g khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Đặng Ngọc V từ 06( Sáu) đến 09( Chín) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam: 27/05/2017.

Về vật chứng: 01 (một) xe môtô nhãn hiệu DRIN, biển số 78F6-6215 Cơ quan CSĐT đã trao trả cho người bị hại Lê Văn D; 01 (một) chìa khóa xe CQ CSĐT Công an huyện Tuy An tạm giữ để xử lý; 01(một) xe mô tô nhãn hiệu SUVINA, biển số 78H8-3810 mà Đặng Ngọc V  trộm cắp tại địa bàn huyện TA nên CQCSĐT Công an thị xã Sông Cầu đã chuyển cho CQCSĐT Công an huyện Tuy An giải quyết theo thẩm quyền, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Ý kiến của người bị hại: Vợ chồng ông Lê Văn D, bà Đoàn Thị L nhất trí với ý kiến luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Tòa án xét xử đúng pháp luật; về bồi thường dân sự thì gia đình bị hại không yêu cầu gì thêm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau - Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Sông Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sông Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người bị hại,  không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo Đặng Ngọc V  có hành vi lợi dụng sự sơ hở, xe mô tô để ở bụi cây không có người trông coi của vợ chồng ông Lê Văn D, lén lút dùng chìa khóa xe lấy trộm của xe khác ở huyện TA để mở ổ khóa điện xe 78F6-6215 và điều khiển xe 78F6-6215, có giá trị 3.500.000đ  để tẩu thoát. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm về tội “trộm cắp tài sản”, được quy định tại khoản 1điều 138 Bộ luật hình sự.

Xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, bị cáo là thanh niên mới lớn lên, lười lao động, chỉ biết kiếm tiền trên sức lao động của người khác, nên  cần áp dụng một hình phạt tù nghiêm khắc tương xứng với vai trò, tính chất mức độ phạm tội của từng bị cáo và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo; gây thiệt hại không lớn, nên áp dụng điểm p,g khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại vợ chồng ông Lê Văn D, bà Đoàn Thị L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường khoản gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

Về vật chứng vụ án: 01 (một) xe môtô nhãn hiệu DRIN, biển số 78F6-6215 Cơ quan CSĐT đã trao trả cho người bị hại Lê Văn D; 01 (một) chìa khóa xe CQ CSĐT Công an huyện Tuy An tạm giữ để xử lý; 01(một) xe mô tô nhãn hiệu SUVINA, biển số 78H8-3810 mà Đặng Ngọc V  trộm cắp tại địa bàn huyện TA nên CQCSĐT Công an thị xã Sông Cầu đã chuyển cho CQCSĐT Công an huyện Tuy An giải quyết theo thẩm quyền, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Ngọc V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1, Điều 138; điểm p,g  khoản 1 Điều 46, Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Đặng Ngọc V 06( Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam: 27/05/2017.

Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Đặng Ngọc V phải nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết công khai hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2017/HS-ST ngày 28/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:21/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sông Cầu - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về