Bản án 21/2018/DS-ST ngày 08/10/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂNTHÀNH PHỐ L, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 21/2018/DS-ST NGÀY 08/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 69/2017/TLST- DS ngày 23 tháng 10 năm 2017 về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2018/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2018/QĐHPT- ST ngày 25 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Lan O - Sinh năm 1980;

Địa chỉ: Tổ 26, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có mặt

- Bị đơn: Chị Tạ Thị Hồng N – Sinh năm 1981;

Địa chỉ: Tổ 10, phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có mặt

Người làm chứng:

- Bà: Vương Thị S – Sinh năm 1957;

Địa chỉ: Tổ 10, phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

- Anh: Nguyễn Quang T – Sinh năm 1973

Địa chỉ: Tổ 26, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O trình bày:

Chị và chị Tạ Thị Hồng N có quan hệ gia đình họ hàng, chị là chị dâu họ của chị N, chị Nhung công tác và làm việc tại Quỹ tín dụng nhân dân Cam Đường. Vì có quan hệ gia đình nên cuối năm 2014, chị đã cho chị N vay tiền nhiều lần, chị N vay tiền của chị một thời gian lại trả cho chị, khi cho vay chị N có ký vào sổ của chị, số tiền mà chị cho chị N vay có lần chị đưa trực tiếp cho chị N, có lần chị đưa cho bà Vương Thị S là mẹ đẻ của chị N nhận hộ cho chị N. Sau nhiều lần vay tiền,đến lần cuối cùng chị N không trả gốc và trả lãi theo tháng cho chị mà chị N hẹn 03 tháng trả lãi một lần nên chị đã yêu cầu chị N chốt tổng số tiền chị N đã vay chị chưa trả là 600 triệu đồng và chị N ký vào giấy vay nợ vào ngày 10/5/2015, lãi xuất theo thỏa thuận và thống nhất trả lãi 3 tháng một lần và thời hạn trả gốc là khi nào chị có nhu cầu lấy lại tiền thì chị sẽ thông báo trước cho chị N 15 ngày. Sau khi viết giấy vay nợ ngày 10/5/2015 chị N không trả lãi cho chị theo thỏa thuận và chị N có trình bày số tiền chị N vay của chị thì chị N cho người tên Tiến vay và đã bỏ trốn. Sau một thời gian không thấy chị N trả lãi và trả gốc cho chị, chị đã yêu cầu N trả lãi cho chị theo lãi suất ngân hàng nhưng N trình bày hoàn cảnh khó khăn nên xin được trả lãi bằng ½ lãi suất ngân hàng, chị đã đồng ý và yêu cầu chị N trả lãi thay cho chị khoản tiền lãi mà vợ chồng chị đã vay tại Quỹ tín dụng nhân dân Cam Đường, chị N đã thay chị trả lãi tại Quỹ tín dụng nhân dân Cam Đường một thời gian. Đến tháng 3 năm 2017, gia đình chị đã trả hết gốc đối với khoản tiền chị vay tại Quỹ tín dụng nhân dân Cam Đường, chị N không phải thay chị trả lãi tại Quỹ tín dụng nhân dân Cam Đường nhưng chị N cũng không trực tiếp trả lãi đối với khoản tiền chị N đã vay của chị nên chị đã yêu cầu chị N thanh toán số tiền 600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng) chị N đã vay của chị nhưng chị N không thanh toán, chị đã nhiều lần gặp trực tiếp và gọi điện thoại cho chị N yêu cầu chị N thanh toán trả nhưng chị N không trả mà còn chặn điện thoại của chị. Ngày 07/8/2017 chị đã viết giấy gửi chị N đề nghị phải thanh toán cho chị số tiền đã vay là 600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng) và lãi xuất. Đồng thời chị cũng có đề nghị

Quỹ tín dụng nhân dân Cam Đường nơi chị N công tác để tác động chị N có trách nhiệm trả tiền cho chị nhưng chị N vẫn không trả mà còn viết giấy gửi lại chị cho rằng chị cho Nguyễn Hữu T vay tiền nhưng vì T là lãnh đạo của chị N nên chị N có ký vào giấy vay tiền của chị. Sự việc chị N vay tiền của chị là có thực tế, địa điểm các lần chị đưa tiền cho chị N vay ở tại nhà bà Vương Thị S. Đến nay chị N không thừa nhận và cho rằng không vay tiền của chị và không có trách nhiệm trả số tiền chị N đã vay. Vì vậy chị đề nghị Tòa án nhân dân thành phố L giải quyết buộc chị Tạ Thị Hồng N phải trả cho chị số tiền gốc vay còn nợ là 600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng chẵn) và khoản tiền lãi xuất tính theo lãi xuất ngân hàng, thời gian tính lãi từ tháng 4/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm là 18 tháng với mức lãi xuất 1,1%/tháng, cụ thể tổng cộng số tiền cả gốc và lãi chị yêu cầu chị Tạ Thị Hồng N phải trả là: 600.000.000đ + 118.800.000đ = 718.800.000đ (Bẩy trăm mười tám triệu tám trăm nghìn đồng).

Tại bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn chị Tạ Thị Hồng N trình bày:

Theo chị biết thì khoảng tháng 9/2014 chị Đỗ Thị Lan O có cho anh Nguyễn Hữu T công tác tại Quỹ tín dụng nhân dân Cam Đường vay số tiền 600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng), khi chị O giao tiền cho anh T là ở tại nhà mẹ đẻ chị là bà Vương Thị S tại tổ 10, phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Hàng tháng anh Nguyễn Hữu T có nhờ chị cầm hộ số tiền lãi là 40 triệu đồng để về đưa cho chị O, khoảng một thời gian dài chị O đã nhận số tiền lãi lớn do anh T trả. Đến một hôm khi chị đang làm việc ở cơ quan thấy chị O gọi điện bảo sang cơ quan chị O nhờ tý việc, khi chị sang gặp thì chị O mang tờ giấy đánh máy sẵn ghi giấy nhận nợ nhờ chị ký vào và bảo “Em hộ chị nhé” để cho chồng chị yên tâm. Vì nể nang do chị O có quan hệ họ hàng nên chị đã ký vào giấy đó còn thực tế chị không vay tiền của chị O và chị không hề cầm một đồng tiền nào của chị O, không biết giữa chị O và anh T thỏa thuận với nhau như thế nào, chị chỉ biết mẹ chị ( bà Vương Thị S ) nói là chị O cho anh T vay tiền và anh T nói với chị là vay tiền của chị O nên chị ký hộ. Nhưng anh T bất ngờ bỏ trốn thì chị O đứng ra đòi tiền chị, bắt chị phải trả số tiền chị đã ký nhận với chị O. Chị cho rằng chị không vay tiền của chị O, chị O nhờ chị ký hộ như vậy để giúp chị O về nói với chồng chị O cho yên tâm. Do đó quan điểm của chị Tạ Thị Hồng N đến nay là không liên quan và không có trách nhiệm phải trả khoản tiền chị O khởi kiện đòi chị.

Người làm chứng bà Vương Thị S trình bày:

Theo bà được biết thì chị Tạ Thị Hồng N con bà không vay tiền của chị O, chị O có cho một người tên T vay tiền, chị Oanh đưa tiền cho anh T vay ở tại nhà bà, bà có nhìn thấy chị O đưa tiền cho anh T nhưng bà không biết số tiền đó là bao nhiêu, gồm những loại tiền nào và bà không nhớ chị O đưa tiền cho anh T ngày tháng năm nào. Bà cũng được nghe chị N con gái bà kể lại về việc anh T hàng tháng có trả tiền lãi cho chị O là 40 triệu đồng đưa qua chị N con gái bà cầm để trả cho chị O, do đó đến nay chị O kiện đòi chị N con gái bà phải trả tiền cho chị O là hoàn toàn sai, chị N con bà không có trách nhiệm phải trả số tiền hiện nay chị O kiện đòi, chị O phải đi đòi người tên T.

Người làm chứng anh Nguyễn Quang T trình bày:

Cuối năm 2014 vợ anh là Đỗ Thị Lan O có nói với anh là cho Tạ Thị Hồng N là em con dì anh vay tiền, anh có hỏi vợ anh là N vay tiền để làm gì thì vợ anh nói là để N đáo nợ ngân hàng. Số tiền cho chị N vay cũng là do vợ anh đi vay ngân hàng và cho chị N vay với lãi xuất cao hơn của Ngân hàng để có thêm nguồn thu cải thiện đời sống gia đình.

Đến khoảng tháng 5 năm 2015, vợ anh lại nói với anh là N vay tiền số tiền 600 triệu đồng nhưng không trả lãi mà hẹn 3 tháng trả lãi một lần. Nhưng sau đó vợ anh lại nói N không trả lãi cho vợ anh, anh có gọi điện và đến gặp N thì Nhung nói là số tiền vợ anh cho N vay N cho người tên T vay và người đó đã bỏ trốn. Vì nghĩ là anh em trong gia đình nên anh đã nhiều lần có ý hỗ trợ N đòi tiền của T nhưng N không có ý kiến gì và anh thấy chị N không có động thái nào trả tiền cho vợ anh. Sau một thời gian không thấy chị N trả gốc và trả lãi cho vợ anh nên anh có gọi điện yêu cầu chị N thanh toán nhưng chị N đã chặn điện thoại của vợ chồng anh. Anh biết, vợ anh cho N vay tiền nhiều lần, có ghi vào sổ sách theo dõi và N đã ký nhận. Số tiền N vay 600 triệu đồng N đã ký nhận vào giấy vay tiền của vợ anh, đã trả lãi cho vợ chồng anh tại quỹ tín dụng nhân dân Cam Đường nay N phủ nhận việc vay tiền và cho rằng vợ anh chị O cho người tên T làm cùng cơ quan của N vay tiền, N chỉ ký nhận hộ là không đúng. Việc vợ anh cho N vay tiền là có thật, N vay tiền và đã ký nhận vào giấy vay tiền thì N phải có trách nhiệm với khoản tiền vay của vợ anh chứ không thể nói là ký hộ cho người tên T được. Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết buộc Tạ Thị Hồng N phải có trách nhiệm trả số tiền đã vay cho vợ anh là chị Đỗ Thị Lan O theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm của mình và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố L phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa là đúng quy định của pháp luật, đảm bảo đúng trình tự luật định, không vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử; Viện Kiểm sát nghiên cứu hồ sơ đảm bảo đúng quy định pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án; Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các điều 463, 466, 468 và 469 Bộ luật dân sự. Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O. Buộc chị Tạ Thị Hồng N phải trả cho chị Đỗ Thị Lan O số tiền gốc vay còn nợ là 600 triệu đồng và khoản lãi xuất tính từ tháng4/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm là 18 tháng với mức lãi xuất 1,1%/tháng là 118.800.000đ. Tổng cộng số tiền cả gốc và lãi buộc chị Tạ Thị Hồng N phải trả cho chị Đỗ Thị Lan O là 718.800.000đ (Bẩy trăm mười tám triệu tám trăm nghìn đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tòa án nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Ngày 11 tháng 10 năm 2017 chị Đỗ Thị Lan O có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai giải quyết buộc chị Tạ Thị Hồng N phải trả cho chị số tiền gốc vay còn nợ là600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng) và khoản lãi xuất, với lý do chị Tạ Thị HồngN có vay tiền của chị chưa trả. Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O đề nghị Tòa án nhân dân thành phố L xem xét, giải quyết, xác định mối quan hệ pháp luật phải giải quyết là “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Xét yêu cầu của nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O. Tòa án nhận định: Vào ngày 10/5/2015 chị Tạ Thị Hồng N có ký giấy vay số tiền 600.000.000đ của chị Đỗ Thị Lan O, lãi xuất ghi trong giấy vay tiền là theo thỏa thuận, thời hạn trả lãi vào ngày mùng 10 của tháng thứ ba (Tức 03 tháng trả lãi một lần). Thời hạn trả gốc ghi khi bên cho vay có nhu cầu đòi lại số tiền gốc thì thông báo cho bên vay trước 15 ngày. Trong giấy vay tiền chị N xác nhận đã nhận đủ tiền vay và cam kết thực hiện các quyền và nghĩa vụ như hai bên đã thỏa thuận. Chị Đỗ Thị Lan O đề nghị Tòa án nhân dân thành phố L giải quyết buộc chị Tạ Thị Hồng N phải có trách nhiệm trả cho chị số tiền gốc vay còn nợ là 600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng) và khoản tiền lãi xuất tính từ tháng 4 năm 2017 đến nay với thời gian là 18 tháng, với mức lãi xuất 1,1 % / tháng. Tổng cộng số tiền cả gốc và lãi chị Đỗ Thị Lan O yêu cầu chị N đến nay phải trả là 718.800.000đ (Bẩy trăm mười tám triệu tám trăm nghìn đồng).

[3] Theo yêu cầu của nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O là buộc chị Tạ Thị Hồng N phải trả cho chị O số tiền tổng cộng cả gốc và lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 718.800.000đ (Bẩy trăm mười tám triệu tám trăm nghìn đồng). Còn phía bị đơn chị Tạ Thị Hồng N cho rằng chị không vay tiền của chị O mà chị O cho một người tên T vay tiền. Việc chị O cho T vay tiền địa điểm tại nhà mẹ đẻ của chị N là bà Vương Thị S, bà S biết việc chị O cho T vay tiền. Ngoài ra chị N còn khai hàng tháng anh T có trả lãi cho chị O số tiền 40 triệu đồng thông qua chị cầm đưa cho chị O. Sau một thời gian T đã bỏ trốn thì chị O mới viết giấy và bảo chị ký vào để chị O về bảo với chồng chị O cho yên tâm. Thực tế chị không vay tiền của chị O nên chị không có nghĩa vụ phải trả cho chị O như yêu cầu khởi kiện của chị O.

Về vấn đề này thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn chị Tạ Thị Hồng N đều thừa nhận trong giấy vay tiền ngày 10 tháng 5 năm2015 đúng là chữ ký của chị Tạ Thị Hồng N đã ký. Ngoài ra chị N còn ký một số khoản vay ở tại sổ ghi chép của chị O do chị O ghi chép để theo dõi cập nhật. Xong chị N vẫn khẳng định và cho rằng chị không vay tiền của chị O mà đưa ra việc chị O cho một người tên T vay tiền, hàng tháng chị N có cầm tiền lãi của người tên T đưa để trả hộ T cho chị O. Vấn đề chị N đưa ra như vậy nhưng bị đơn hoàn toàn không đưa ra được bất cứ tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho việc bị đơn trình bày là có căn cứ pháp luật. Vấn đề bị đơn nại ra cho rằng chị O cho một người tên T vay tiền tại nhà bà Vương Thị S và hàng tháng có cầm tiền lãi do T đưa để trả chị O hộ cho T. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bà Vương Thị S cũng có khai là nhìn thấy chị O đưa tiền cho T tại nhà bà nhưng thực tế bà không biết cụ thể là chị O đã đưa cho T vay tiền vào ngày, tháng, năm nào, số tiền là bao nhiêu và các loại tiền cụ thể như thế nào. Ngoài ra bà S cũng khai có nghe chị N con gái bà nói lại thì bà biết là hàng tháng chị N có cầm 40 triệu đồng tiền lãi do Tiến đưa để đưa cho chị O. Việc bà S khai và xác nhận chỉ có bà biết ngoài ra không ai biết và nhìn thấy sự việc chị O đưa tiền cho người tên T và không có chứng cứ nào khác chứng minh việc chị O đưa tiền cho anh T. Xét về lời khai của người làm chứng bà Vương Thị S cho thấy rằng là không khách quan và không có căn cứ, bởi lẽ bà Vương Thị S là người có quan hệ ruột thịt và là mẹ đẻ của chị Tạ Thị Hồng N. Mặt khác theo bà Vương Thị S khai thì thực tế là bà không biết rõ, chính xác việc chị O đã đưa tiền cho người tên T cụ thể như thế nào. Còn sự việc hàng tháng T có đưa số tiền lãi 40 triệu đồng qua chị N để trả chị O thì bà S cũng chỉ nghe chị N con gái bà nói lại thì bà biết chứ bà không tận mắt nhìn thấy. Vì vậy lời trình bày của người làm chứng bà Vương Thị S xét thấy là không khách quan, không thể lấy đó làm căn cứ để khẳng định có sự việc chị Đỗ Thị Lan O cho một người tên T vay tiền như chị Tạ Thị Hồng N và bà Vương Thị S trình bày.

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O có cung cấp cho Tòa án giấy tờ, sổ sách ghi chép thể hiện về việc chị Tạ Thị Hồng N có vay tiền của chị O nhiều lần chứ không phải như chị N khai là chị không vay tiền của chị Đỗ Thị Lan O mà chị chỉ ký hộ.

Ngoài ra quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã nhiều lần yêu cầu bị đơn chị Tạ Thị Hồng N có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc bị đơn trình bày về việc không vay tiền của chị O mà là chị O cho một người tên T vay tiền và việc chị N có cầm tiền lãi của người tên T mỗi tháng 40 triệu đồng để đưa cho chị O như chị N đã trình bày. Xong bị đơn chị N hoàn toàn không cung cấp được bất cứ tài liệu,chứng cứ gì để chứng minh cho việc trình bày của mình là có căn cứ pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay chị N vẫn khẳng định và cho rằng chị không vay tiền của chị O, xong chị phải biết được việc chị có ký và thừa nhận chữ ký trong giấy vay tiền của chị Đỗ Thị Lan O ngày 10/5/2015 là chữ ký của chị thì chị N phải chịu trách nhiệm như thế nào. Mặt khác về khoản tiền 40 triệu đồng lãi hàng tháng chị khai chị cầm của người tên T để đưa cho chị O thì chị N đã thừa nhận đó là số tiền lớn, thì chị phải biết được là khi đưa cho bất kỳ ai chị phải cho họ ký nhận hoặc nếu không thì cũng phải có giấy tờ, sổ sách ghi chép để theo dõi về việc T đưa cho chị và chị đưa cho chị O hay đưa cho ai cụ thể như thế nào. Về vấn đề này chị N cũng không đưa ra được bất cứ tài liệu, chứng cứ gì chứng minh cho việc chị trình bày là có căn cứ pháp luật. Mọi vấn đề chị N trình bày và cho rằng chị không vay tiền và không có trách nhiệm phải trả tiền theo yêu cầu của chị O là không có căn cứ chấp nhận. Do vậy việc nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O khởi kiện yêu cầu chị Tạ Thị Hồng N phải trả cho chị số tiền gốc vay còn nợ là 600.000000đ (Sáu trăm triệu đồng) và khoản lãi xuất đối với khoản vay trên là có căn cứ, cần chấp nhận để buộc chị Tạ Thị Hồng N phải có nghĩa vụ trả cho chị Đỗ Thị Lan O số tiền gốc vay còn nợ là 600.000.000đ (Sáu trăm triệụ đồng) và khoản tiền lãi xuất là phù hợp với quy định tại các điều 463, 466, 468 và 469 của Bộ luật Dân sự.

[4] Về khoản tiền lãi xuất: Nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O yêu cầu chị Tạ Thị Hồng N phải trả khoản tiền lãi xuất tính từ tháng 4/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm là 18 tháng, với mức lãi xuất 1,1% /tháng. Xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật, cần chấp nhận để buộc chị Tạ Thị Hồng N phải trả khoản tiền lãi cho chị Đỗ Thị Lan O và được tính cụ thể như sau: 600.000.000đ x 1,1% x 18 tháng = 118.800.000đ (Một trăm mười tám triệu tám trăm nghìn đồng).

Như vậy tổng cộng số tiền cả gốc và lãi cần buộc chị Tạ Thị Hồng N phải có nghĩa vụ trả cho chị Đỗ Thị Lan O là 718.800.000đ (Bẩy trăm mười tám triệu tám trăm nghìn đồng).

[5]Về án phí: Áp dụng Khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị đơn chị Tạ Thị Hồng N phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các điều 463, 466, 468 và 469 của Bộ Luật Dân sự; Khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O; Buộc chị Tạ Thị Hồng N phải có nghĩa vụ trả cho chị Đỗ Thị Lan O tổng cộng số tiền cả gốc và lãi là 718.800.000đ (Bẩy trăm mười tám triệu tám trăm nghìn đồng).

2. Về án phí: Chị Tạ Thị Hồng N phải chịu 32.752.000đ (Ba mươi hai triệu bẩy trăm năm mươi hai nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho nguyên đơn chị Đỗ Thị Lan O số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 14.792.000đ (Mười bốn triệu bầy trăm chín mươi hai nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: AB/2012/ 0004667 ngày 19 tháng 10 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lào Cai.

- Về nghĩa vụ thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự.

- Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2018/DS-ST ngày 08/10/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:21/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về