Bản án 21/2018/HNGĐ-ST ngày 07/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 21/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/03/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 3 năm 2018 tại phòng xử án trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 367/2017/TLST-HNGĐ, ngày 06/12/2017 “V/v Ly hôn tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 23 tháng 01 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 09/02/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trương Thị O - Sinh năm: 1984 (có mặt); Địa chỉ: 682A/5, ấp TQ, xã PH, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Lê Thành T - Sinh năm: 1982 (có mặt); Địa chỉ: 682A/5, ấp TQ, xã PH, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 22/11/2017 và tại phiên tòa nguyên đơn Trương Thị O trình bày:

Vào năm 2004 Trương Thị O và Lê Thành T quen biết nhau rồi được 02 gia đình thống nhất cho sống chung nhau như vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại UBND xã PH, huyện Lai Vung, ngày 10/01/2005. Trong quá trình sống chung có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cải nhau, Lê Thành T nhậu về là kiếm chuyện cự cải, có lần đánh Trương Thị O, không lo lắng gì cho gia đình. Đến tháng 01/2017 vợ chồng ly thân cho đến nay, nên tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài. Trương Thị O yêu cầu được ly hôn với Lê Thành T; Về con chung, có 01 con chung là Lê Thị Kim Y sinh ngày 27/11/2004, chị O yêu cầu được nuôi Lê Thị Kim Y và không yêu cầu Lê Thành T cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản và nợ chung Trương Thị O không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa bị đơn Lê Thành T trình bày:

Theo lời trình bày của Trương Thị O là đúng, vợ chồng tự tìm hiểu rồi thương nhau sống chung như vợ chồng từ năm 2004 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã PH, huyện Lai Vung, ngày 10/01/2005. Trong thời gian vợ chồng sống chung có quan điểm bất đồng và có cự cải với nhau; Vợ chồng mâu thuẫn, nhưng chưa trầm trọng, có thể hàn gắn được; Lê Thành T vẫn còn tình cảm với Trương Thị O, anh T không đồng ý ly hôn với Trương Thị O. Về con chung Lê Thành T không đồng ý cho chị O nuôi con mà yêu cầu được nuôi con là Lê Thị Kim Y, sinh ngày 27/11/2004 và không yêu cầu chị O cấp dưỡng; Về tài sản và nợ chung Lê Thành T không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Trương Thị O và Lê Thành T sống chung nhau như vợ chồng từ năm 2004, đến ngày 10/01/2005 tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình sống chung có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cải nhau, Lê Thành T không quan tâm, không lo lắng gì cho gia đình. Đến tháng 01/2017 vợ chồng ly thân cho đến nay, nên tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài. Mặc dù, Tòa án đã kiên trì hòa giải nhưng Trương Thị O vẫn cương quyết xin ly hôn với Lê Thành T, xét thấy mâu thuẫn của chị O và anh T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được, cho nên việc Trương Thị O yêu cầu ly hôn là thỏa mãn các điều kiện theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, vì vậy Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của Trương Thị O là có căn cứ.

[2] Về con chung: Trương Thị O yêu cầu nuôi Lê Thị Kim Y, sinh ngày 27/11/2004, việc giao con cho ai nuôi là xem xét điều kiện để nuôi con, chị O có đủ khả năng nuôi con, hơn nữa theo tờ trình của Lê Thị Kim Y nội dung là yêu cầu được sống với chị O; Lê Thành T đi làm thường ít về nên việc chăm sóc nuôi con không bằng chị O, nên cần chấp nhận yêu cầu của chị O là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về cấp dưỡng: Đáng lý ra Lê Thành T không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình, nhưng Trương Thị O không yêu cầu Lê Thành T cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt thành vấn đề xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Trương Thị O và Lê Thành T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Nguyên đơn Trương Thị O phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn phù hợp với khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Trương Thị O được ly hôn với Lê Thành T.

2. Về con chung: Trương Thị O được quyền nuôi Lê Thị Kim Y, sinh ngày 27/11/2004; Lê Thành T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Trương Thị O cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở Lê Thành T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí và tạm ứng án phí sơ thẩm: Trương Thị O phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số: 00859, ngày 06/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp (Trương Thị O đã nộp xong).

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (07/3/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2018/HNGĐ-ST ngày 07/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:21/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về