Bản án 21/2019/HS-ST ngày 07/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN A, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 07/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận A, số 06 Lý Tự Trọng, phường Bến Nghé, Quận A, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2019/HSST ngày 21 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Lưu Tuấn V; ngày sinh 17 tháng 9 năm 1984, tại Thành phố H; Hộ khẩu thường trú: 129/24P Đường T, Phường 2, Quận X, Thành phố H; Chỗ ở hiện nay: 129/24P Đường T, Phường 2, Quận X, Thành phố H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: không; con ông Lưu T và bà Lâm Ngọc P; hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; tiền án - tiền sự: không; nhân thân: Ngày 20/01/2011, bị Công an Phường 2, Quận 5 lập hồ sơ đưa đi cai nghiện bắt buộc ngày 04/01/2013, bị Ủy ban nhân dân Quận X ra Quyết định số 07/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp quản lý hành chính sau cai nghiện ma túy tại Phường 2, Quận X trong thời hạn 24 tháng. Ngày 29/4/2014, bị Công an Phường 5, Quận A0 ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000đ vì có hành vi Trộm cắp tài sản; Ngày 29/4/2014, bị Công an Quận X ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000đ vì có hành vi Trộm cắp tài sản; Bị can bị bắt và tạm giam từ ngày 27/12/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Trần Hoài N, sinh ngày 03/3/1991; trú tại: 82 đường D, Phường 13, quận B, Thành phố H (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 27/12/2018, Lưu Tuấn V vào bệnh viện T, số 191 đường K, Phường L, Quận A để tìm người có tài sản sơ hở để chiếm đoạt. Khi đến tầng trệt Khu N của bệnh viện, V phát hiện thấy có 01 chiếc điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy Note 4 màu trắng của anh Trần Hoài N đang cắm sạc, xung quanh có khoảng 02-03 người thanh niên. Lợi dụng không ai để ý, V dùng tay trái rút dây sạc rồi dùng tay phải cầm chiếc điện thoại lên thì bị anh N phát hiện nên tri hô và đuổi theo V. Khi chạy được khoảng 10 mét thì V ném lại điện thoại vừa trộm cắp được và tiếp tục chạy ra cổng bệnh viện Từ Dũ, số 191 Đường K, Phường L, Quận A thì bị anh Ngô Quang C (là bảo vệ bệnh viện) và anh Đặng Minh Q (là người chạy xe ôm) hỗ trợ bắt giữ V đưa về Công an Phường L, Quận A lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Lưu Tuấn V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 4 màu trắng theo kết luận định giá tài sản số 03/KL-HĐĐGTS ngày 02/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự có trị giá là 3.467.000 đồng.

Thu giữ của bị cáo: 01 quần jean dài màu đen và 01 áo sơ mi dài tay sọc đen xám.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKSQ1 ngày 21 tháng 02 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân Quận A đã truy tố bị cáo Lưu Tuấn V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận A vẫn giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lưu Tuấn V về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lưu Tuấn V từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; xử lý vật chứng của vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 4 màu trắng đã thu hồi và trả lại cho người bị hại, bị hại không có yêu cầu bồi thường; Tịch thu tiêu hủy 01 quần Jean dài màu xanh, 01 quần jean dài màu đen và 01 áo sơ mi dài tay sọc đen xám của bị cáo do không còn giá trị sử dụng.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát nhân dân Quận A và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiểm sát truy tố đúng tội danh; bị cáo không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình và nói lời sau cùng, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tốtụng, người  tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo cũng đã khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Vào khoảng 13 giờ ngày 27/12/2018, Lưu Tuấn V có hành vi lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 4 màu trắng trị giá 3.467.000 đồng của anh Trần Hoài N. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, tang vật thu giữ, lời khai của người bị hại và các tài liệu khác mà cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo Lưu Tuấn V đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy, Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát nhân dân Quận A đối với bị cáo Lưu Tuấn V là đúng người, đúng tội, phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình đã gây ra; Bị cáo biết rất rõ việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động chính đáng nên vẫn cố tình phạm tội. Xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu đã hai lần bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không cố gắng sửa chữa, rút kinh nghiệm mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần thiết phải xử lý nghiêm minh bị cáo trước pháp luật nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, tài sản đã thu hồi trả lại người bị hại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Trần Hoài N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.

 [6] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 quần jean dài màu đen và 01 áo sơ mi dài tay sọc ca rô màu đen xám do không còn giá trị sử dụng.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lưu Tuấn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Lưu Tuấn V 01 năm tù; Thời hạn tù tính từ ngày: 27/12/2018;

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Tịch thu, tiêu hủy 01 quần jean dài màu đen và 01 áo sơ mi dài tay sọc ca rô màu đen xám theo Phiếu nhập kho vật chứng số 13/19-PNK ngày 04/01/2019 của Công an Quận A, Thành phố H.

Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HS-ST ngày 07/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về