Bản án 21/2019/HS-ST ngày 23/07/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 23/07/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Châu N, sinh năm 1997 tại tỉnh Đồng Tháp. Nơi cư trú (HKTT): Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Châu B, sinh năm 1962 (sống) và bà Nguyễn B1, sinh năm 1961 (sống); chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ: 24-01-2019; tạm giam 30-01-2019, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáoLuật sư Nguyễn Thanh Tuấn- Công ty Luật TNHH Luật Hoàng và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Tháp (có mặt).

- Bị hạiNguyễn K, sinh năm 1974 (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp cho bị hại Nguyễn K:

1. Nguyễn L, sinh năm 1949.

Cư trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

2. Hà Z, sinh năm 1949.

Cư trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

Ông Nguyễn L ủy quyền cho bà Hà Z tham gia tố tụng tại phiên tòa (Bà Z có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Châu M, sinh năm 1962.

Cư trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

- Người làm chứng:

1. Lê X, sinh năm 1973 (có mặt).

2. Nguyễn Thị V, sinh năm 1974 (vắng mặt).

3. Nguyễn P, sinh năm 1974 (vắng mặt).

4. Lê T, sinh năm 1974 (vắng mặt).

5. Nguyễn Y, sinh năm 1982 (có mặt).

Cùng cư trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

6. Lê U, sinh năm 1987 (vắng mặt).

Cư trú: Khóm O, phường Ó, thị xã C, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ, ngày 23-01-2019, sau khi đã có uống rượu, bia cùng với bạn bè, Châu N điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki do N đứng tên chủ sở hữu, biển số 66G1-173.XX đi từ xã B, huyện C, tỉnh Đồng Tháp dự định qua thị xã C1 rủ bạn bè nhậu tiếp.

Khi đến bến đò Chợ Q thuộc xã B thì N đậu xe và ngồi tại quán nước giải khát của chị Nguyễn Thị V để chờ đò đi qua thị xã C1. Lúc này, ở cách bến đò khoảng 25m, anh Nguyễn K, sinh năm 1974 cùng anh ruột là Lê X và 02 người bạn là Lê U, Lê R đang ngồi uống rượu chung tại nhà anh X (thuộc ấp A, B). Trong lúc cả nhóm đang uống rượu thì anh Nguyễn P là dượng út của X (ngụ cùng xóm) leo lên cây trứng cá trước cửa nhà X để bắt con gà, X nghe tiếng gà kêu thì la lên: “Ai leo lên cây trứng cá bắt gà vậy?”, P trả lời: “Dượng út nè!”. Châu N nghe tiếng la của X thì đi tới và lớn tiếng nói: “Quen không? Quen không? Nếu không quen thì báo Công an bt đi?”. Lúc này X, K, U và R nghe Ngọc nói vậy thì từ trong nhà đi ra và nói với N: “Không phải chuyện của mày!”. N liền nói lại: “Tôi không là gì hết!”. Nghe N nói, R dùng tay đánh trúng vào nón bảo hiểm của N đang đội trên đầu 01 cái thì X can ngăn không cho N và R đánh nhau. N tức giận tháo nón bảo hiểm đang đội trên đầu ra đập xuống đường rồi chạy đến xe mô tô của N đang đậu cách vị trí của K, X, U, R đang đứng khoảng 15m, N mở yên xe lên lấy trong cốp xe ra 01 con dao (gọi là dao Thái Lan) cán màu xanh đen, lưỡi dao bằng kim loại màu đen có tổng chiều dài 34cm (có lưỡi dài 20,4cm; rộng 4,4 cm), sắc nhọn. R nhìn thấy N cầm dao liền bỏ chạy. N tay phải cầm dao chạy đến đứng đối diện với Nguyễn K và la lớn: “Thằng nào đánh tao?”, rồi N dùng dao đâm thẳng vào vùng ngực trái của K 01 cái làm cho K bị đứt xương sườn số 3 và số 4 gây thủng tim, thủng phổi chết ngay tại hiện trường thuộc bến đò Chợ Q, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

Anh X, anh U, chị V nhìn thấy Châu N cầm dao tay phải trực tiếp đâm K, nhưng không xác định được N đâm trúng vị trí nào trên cơ thể của K.

Sau khi đâm K tử vong, Châu N ném bỏ con dao, chạy lại chỗ đậu xe mô tô định điều khiển xe rời khởi hiện trường thì anh Lê X đuổi theo, N bỏ xe và chạy bộ rời khỏi hiện trường đến Công an xã B đầu thú.

Sau khi nhận được tin báo, Cơ quan điều tra Công an huyện C phối hợp cùng Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đồng Tháp tiến hành khám nghiệm hiện trường, truy tìm, thu giữ được: 01 con dao dài 34cm, lưỡi dao dài 20,4cm, cán dao bằng mũ màu xanh đen của Châu N dùng để đâm vào vùng ngực của K rồi ném bỏ con dao cách vị trí xe mô tô nơi N đang đậu khoảng 23,4m. Kết quả nhận dạng, Châu N thừa nhận đây là con dao N dùng để đâm chết K.

Biên bản khám nghiệm tử thi lập lúc 03 giờ 15 phút ngày 24-01-2019 đối với nạn nhân Nguyễn K ghi nhận như sau:

Vùng trán bên phải có vết trầy xước da, kích thước dài 04cm, rộng 2,5cm. Cách 07cm trước đầu vú trái có vết đứt da hình ô van bờ mép sắt gọn hai đầu, kích thước dài 4,5cm, rộng 1,7cm, khi khép vết thương lại dài 05cm, hướng từ ngoài vào trong và xuyên thấu trong lồng ngực. Đứt xương sườn số 3, số 4 lồng ngực bên trái. Khoang lồng ngực bên trái chứa nhiều máu loãng lẫn máu cục. Thủng màng ngoài tim xuyên mặt trước xuyên qua mặt sau tim, khoang tim chứa đầy máu loãng. Thủng thùy dưới phổi trái.

Bản giám định pháp y về tử thi số 13/KL-KTHS ngày 13-02-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Nguyễn K, sinh năm 1974 bị vật sắc nhọn tác động trực tiếp vào vùng ngực trái gây thủng tim, thủng phổi dẫn đến mất máu cấp là nguyên nhân chính dẫn đến tử vong.

Bản giám định pháp y về nước tiểu số 114/KL-KTHS ngày 04-02-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Mẫu nước tiểu chứa trong chai nhựa của Châu N, sinh năm 1997 gửi giám định có chứa thành phần chất ma túy Methamphetamine (thuộc Danh mục II, số thứ tự 323, Nghị định số 73/NĐ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ).

Bản giám định pháp y về mẫu máu số 115/KL-KTHS ngày 04-02-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Mẫu máu chứa trong ống kim tiêm ghi thu của ông Nguyễn K, sinh năm 1974 gửi giám định có chứa thành phần cồn (ethanol) nồng độ 247,2mg/100ml máu.

Tiến hành khám nghiệm hiện trường hồi 02 giờ 05 phút ngày 24-01-2019 thể hiện: Hiện trường nơi xảy ra vụ án tại bến đò Chợ Q thuộc xã B, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

Vị trí số 1: Tử thi Nguyễn K tư thế nằm ngửa, đầu quay về hướng Bắc, không mặc áo, mặc quần sọt ka-ki màu xám, toàn thân phía trước dính nhiều máu, vị trí tử thi cách nhà anh Thạch 21,2m về hướng Tây Bắc, cách lề đường hướng Tây 9,9m. Dưới tử thi phát hiện nhiều dấu vết màu nâu (nghi máu).

Vị trí số 2: Cách tử thi 3,7m về phía Nam có dấu vết màu nâu (nghi máu) dạng nhỏ giọt và dạng tia dài 2,4m, rộng 0,4m.

Vị trí số 3: Cách tử thi 4,3m về hướng Đông có nón bảo hiểm màu trắng nhãn hiệu “Hoàng Sơn” phần nhựa phía trước nón có vết nứt dài 09cm, phía sau có vết nứt dài 15cm.

Vị trí số 4: Cách tử thi về hướng Bắc 9,4m, cách vị trí số 3 về hướng Tây Bắc 8,7m có đôi dép nhựa xốp màu đỏ.

Vị trí số 5: Cách tử thi về hướng Bắc 12,2m, cách vị trí số 4 hướng Đông Bắc 3,1m có 01 xe gắn máy mang biển số 66G1- 173.XX nhãn hiệu Suzuki, xe ngã về phía bên trái, đầu xe quay về hướng Đông Bắc, phía sau bên trái xe phát hiện một võ dao bằng nhựa màu xanh dài 21,4cm, rộng 05cm.

Vị trí số 6: Cách vị trí số 5 về hướng Tây Bắc 23,4m, cách lề đường 12m, trên nền cát phát hiện một con dao cán bằng nhựa màu xanh, đen dài 34cm, lưỡi dao dài 20,4cm, lưỡi dao nơi rộng nhất 4,4cm.

Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể hồi 06 giờ ngày 24-01-2019 đối với Châu N thể hiện: Vùng sát cánh mũi bên trái có vết màu nâu đỏ kích thước dài 01 cm, rộng 0,2cm. Giữa đốt 1, 2 ngón 3 bàn tay trái có vết màu nâu đỏ kích thước dài 0,7cm, rộng 0,4cm. Theo N trình bày đây là những dấu vết máu của bị hại K khi N dùng dao đâm K bị dính trên cơ thể N.

Quá trình điều tra thu giữ được: 01 con dao cán mũ màu xanh đen có chiều dài 34cm, lưỡi dao dài 20,4cm, rộng nhất 4,4cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen; 01 vỏ dao bằng nhựa màu xanh, đen dài 21,4cm, rộng 4,4cm; 01 nón bảo hiểm màu trắng nhãn hiệu Hoàng Sơn; 02 chiếc dép nhựa xốp màu đỏ; 01 quần sọt vải ka-ki màu trắng; 01 nón kết màu trắng có chữ BMW; 01 áo vải sơ mi màu trắng, dài tay; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 037634 mang tên chủ xe Châu Hửu Ngọc; 01 xe mô tô nhãn hiệu suzuki màu sơn đen mang biển số 66G1- 473.37, số máy CGA1IDI168618, số khung 11AZJJ168561, chủ sở hữu Châu N.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Châu M là cha ruột của Châu N đã chi tiền mai táng cho bị hại K tổng cộng là 25.500.000 đồng. Trong quá trình điều tra, người đại diện hợp pháp của bị hại K là bà Hà Z yêu cầu bị cáo Châu N bồi thường mai táng phí, tổn thất tinh thần là 500.000.000 đồng. Châu N đồng ý bồi thường theo yêu cầu của Bà Z và tự nguyện yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng quản lý xe mô tô suzuki biển số 66G1- 473.XX do N đứng tên chủ sở hữu để cho Cơ quan Thi hành án dân sự bán xe lấy tiền bồi thường cho gia đình bị hại.

Tại Cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 29 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã truy tố bị cáo Châu N về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (viết tắt là Bộ luật hình sự).

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Châu N thừa nhận toàn bộ hành vi như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo cho rằng hành vi của bị cáo là có lỗi và vi phạm pháp luật. Bị cáo thừa nhận khoảng 21 giờ, ngày 23-01-2019, bị cáo có dùng dao đâm vào vùng ngực trái của anh Nguyễn K làm cho anh K tử vong ngay tại chỗ, giữa bị cáo và anh K không có mâu thuẫn, bị cáo thừa nhận trước thời điểm gây án vài ngày, bị cáo có sử dụng ma túy đá, khi vụ án xảy ra thì trong người bị cáo có rượu, bị cáo đã vô cớ đâm anh K tử vong. Bị cáo khẳng định hành vi của bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp truy tố tội “Giết người” là không oan, sai. Gia đình bị cáo đã chịu chi phí mai táng cho bị hại Nguyễn K tổng cộng là 25.500.000 đồng, nay bị cáo đồng ý bồi thường tiếp cho bị hại tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật do Tòa án phán quyết và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên án cho Cơ quan Thi hành án dân sự tiếp tục quản lý xe mô tô suzuki biển số 66G1- 473.XX thuộc sở hữu của bị cáo và bán xe để lấy tiền bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại.

Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại là bà Hà Z đồng ý nội dung truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Bà Z cho rằng bà và chồng là ông Nguyễn L là cha mẹ nuôi của bị hại Nguyễn K, ông bà nhận nuôi K lúc K được khoảng 02 tuổi, cha mẹ ruột của K là ai, chết khi nào không rõ, đến nay K vẫn sống chung nhà với ông bà, có tên trong hộ khẩu của ông bà. Bà Z thừa nhận bên gia đình bị cáo đã chịu mai táng phí cho K toàn bộ là 25.500.000 đồng, nay bà không yêu cầu bị cáo bồi thường mai táng phí nữa, nhưng bà yêu cầu bị cáo bồi thường tổn thất tinh thần, mức bồi thường do Tòa án phán quyết.

Tại phiên tòa, lời khai của những người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phù hợp với lời khai tại quá trình điều tra.

Khi luận tội, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Châu N về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, bồi thường thiệt hại theo quy định tại các điểm s, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ đầu thú quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Từ đó, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Châu N mức án từ 17 năm tù đến 19 năm tù. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị áp dụng Điều 584, Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015 bồi thường tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại theo quy định. Về xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao cán mũ màu xanh đen có chiều dài 34cm, lưỡi dao dài 20,4cm, rộng nhất 4,4cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen là hung khí gây án; 01 vỏ dao bằng nhựa màu xanh, đen dài 21,4cm, rộng 4,4cm; 01 nón bảo hiểm màu trắng nhãn hiệu Hoàng Sơn; 02 chiếc dép nhựa xốp màu đỏ; 01 quần sọt vải ka-ki màu trắng; 01 nón kết màu trắng có chữ BMW; 01 áo vải sơ mi màu trắng, dài tay. Đề nghị chấp nhận sự tự nguyện của bị cáo tiếp tục quản lý 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 037634 mang tên chủ xe Châu Hửu Ngọc và 01 xe gắn máy nhãn hiệu Suzuki màu sơn đen mang biển số 66G1- 473.XX, số máy CGA1ID168618, số khung 11AZJJ168561, chủ sở hữu Châu N để đảm bảo thi hành án.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Châu N phát biểu ý kiến thống nhất về tội danh, điều, khoản truy tố và xét xử bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với lý do là ngoài tình tiết giảm nhẹ mà Kiểm sát viên vừa nêu, đề nghị xem xét đến việc bị cáo có thời gian đi bộ đội, bị cáo mới phạm tội lần đầu, hiện bị cáo đang nuôi cha mẹ già.

Bị cáo Châu N không tham gia tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo N xin lỗi gia đình bị hại vì đã gây ra cái chết cho bị hại, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đồng Tháp, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Từ khi khởi tố vụ án cho đến tại phiên tòa sơ thẩm những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Xét thấy, các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy việc ông Nguyễn L và bà Hà Z nhận bị hại Nguyễn K làm con nuôi từ khi K chưa tròn hai tuổi về sống chung nhà và cùng chung hộ khẩu với ông L, Bà Z, quan hệ nuôi con nuôi này cũng được anh Lê X là anh một của bị hại K thừa nhận nên đây là quan hệ nuôi con nuôi thực tế. Theo lời trình bày của anh X tại phiên tòa thì cha mẹ anh đã chết, nên nay xác định ông Nguyễn L và bà Hà Z là đại diện hợp pháp của bị hại là phù hợp với quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự.

[3] Xét thấy ngày 15-01-2019, bị cáo Châu N có hành vi gây thương tích cho anh Nguyễn O, anh O không chịu đi giám định tổn thương cơ thể, không yêu cầu xử lý Châu N Ngày 23-01-2019 Châu N có hành vi dùng dao đâm anh Nguyễn K tử vong, ngày 25-01-2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Tháp khởi tố vụ án, đến ngày 30-01-2019 thì khởi tố bị can. Ngày 04-02-2019 Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã B, huyện C ra Quyết định số 17a/2019/QĐ-XPVPHC xử phạt Châu N 2.500.000 đồng về hành vi gây thương tích cho anh Nguyễn O. Căn cứ quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính thì trong trường hợp này không coi là bị cáo N có tiền sự. Tuy nhiên xét về nhân thân, thì bị cáo N có nhân thân chưa tốt.

[4] Tại phiên tòa, lời khai thừa nhận thực hiện hành vi của bị cáo Châu N phù hợp với nội dung Cáo trạng truy tố, phù hợp với biên bản giám định pháp y về tử thi, các biên bản giám định, biên bản nhận dạng, vật chứng thu giữ được, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo Châu N thừa nhận đã dùng dao đâm anh Nguyễn K chết ngay tại chỗ, giữa bị cáo và anh K không mâu thuẫn, bị cáo đâm anh K không vì bất kỳ lý do gì trái pháp luật xuất phát từ anh K. Hành vi của bị cáo là cố ý tước đoạt mạng sống của anh K một cách trái pháp luật và mang tính chất côn đồ, dẫn đến hậu quả anh K tử vong, do đó hành vi của bị cáo đủ cơ sở cấu thành tội Giết người quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

[5] Hành vi của bị cáo Châu N không chỉ xâm phạm đến tính mạng của bị hại, mà còn làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, gây hoang mang, lo lắng trong cộng đồng dân cư, ảnh hưởng đến cuộc sống bình yên của Nhân dân, hành vi của bị cáo còn là biểu hiện của sự coi thường pháp luật, nên cần có mức án nghiêm minh để áp dụng đối với bị cáo. Xét thấy bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng bị cáo có nhân thân chưa tốt do trước khi gây ra cái chết cho anh K, bị cáo đã có hành vi xâm phạm thân thể người khác tại địa phương. Trong vụ án này không có tình tiết tăng nặng để áp dụng đối với bị cáo. Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi vụ án xảy ra, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường mai táng phí cho bị hại, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo N đã thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; sau khi gây án bị cáo đã đến Công an B đầu thú, bản thân bị cáo có thời gian phục vụ trong Quân đội bảo vệ an ninh tổ quốc nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo còn xuất trình tài liệu chứng minh bị cáo có quan hệ với liệt sỹ Phạm G để xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng Hội đồng xét xử xét thấy ông Phạm G là dượng của cha bị cáo (chồng của cô ruột của ông Châu M) nên không coi đây là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận yêu cầu của bà Hà Z và ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo, đồng thời căn cứ quy định tại Điều 584, Điều 591 Bộ luật dân sự, bị cáo Châu N có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho những người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Nguyễn L và bà Hà Z mai táng phí là 25.500.000 đồng và tổn thất tinh thần bằng 100 lần mức lương cơ sở là 149.000.000 đồng, tổng cộng bị cáo phải bồi thường là 174.500.000 đồng. Đến nay, bị cáo và gia đình đã bồi thường xong mai táng phí là 25.500.000 đồng, vậy bị cáo còn phải bồi thường tiếp tiền tổn thất tinh thần là 149.000.000 đồng.

[7] Về xử lý vật chứng: Xét thấy cần tịch thu tiêu hủy 01 con dao cán mũ màu xanh đen có chiều dài 34cm, lưỡi dao dài 20,4cm, rộng nhất 4,4cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen là hung khí gây án; 01 vỏ dao bằng nhựa màu xanh, đen dài 21,4cm, rộng 4,4cm; 01 nón bảo hiểm màu trắng nhãn hiệu Hoàng Sơn; 02 chiếc dép nhựa xốp màu đỏ; 01 quần sọt vải ka-ki màu trắng; 01 nón kết màu trắng có chữ BMW; 01 áo vải sơ mi màu trắng, dài tay.

Xét thấy chiếc xe mô tô suzuki của bị cáo N mang biển số 66G1-473.XX ngay từ đầu bị cáo không có ý định sử dụng xe này để đi giết bị hại Nguyễn K nên không tịch thu sung ngân sách mà trả lại cho bị cáo và để ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo giao cho Cơ quan thi hành án dân sự bán xe lấy tiền bồi thường cho bị hại. Do đó tiếp tục quản lý: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 037634 mang tên chủ xe Châu N; 01 xe gắn máy nhãn hiệu suzuki màu sơn đen mang biển số 66G1-473.XX, số máy CGA1ID168618, số khung 11AZJJ168561, chủ sở hữu Châu N để đảm bảo thi hành án.

[8] Bị cáo Châu N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Xét thấy phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng quy định của pháp luật nên chấp nhận, xét thấy phát biểu của Luật sư tại phiên tòa là có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Châu N phạm tội “Giết người”.

Xử phạt bị cáo Châu N 19 (Mười chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo (ngày 24-01-2019).

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 468, Điều 584, Điều 591 Bộ luật dân sự.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Châu N đồng ý bồi thường khoản tiền về tổn thất tinh thần cho người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Nguyễn L và bà Hà Z số tiền 149.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi chín triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án mà người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền nêu trên, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự đối với số tiền chưa thi hành án cho đến khi thi hành xong.

3. Về vật chứng:

Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao cán mũ màu xanh đen có chiều dài 34cm, lưỡi dao dài 20,4cm, rộng nhất 4,4cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen; 01 vỏ dao bằng nhựa màu xanh, đen dài 21,4cm, rộng nhất 4,4cm; 01 nón bảo hiểm màu trắng nhãn hiệu Hoàng Sơn; 02 chiếc dép nhựa xốp màu đỏ; 01 quần sọt vải ka-ki màu trắng; 01 nón kết màu trắng có chữ BMW; 01 áo vải sơ mi màu trắng, dài tay.

Tiếp tục quản lý: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 037634 mang tên chủ xe Châu N; 01 xe mô tô nhãn hiệu suzuki màu sơn đen mang biển số 66G1-473.XX, số máy CGA1ID168618, số khung 11AZJJ168561, chủ sở hữu Châu N để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng hiện do Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp đang quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30-5-2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Tháp và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp).

4. Về án phí:

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Châu N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sụ sơ thẩm và 7.450.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án lên Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (23-7-2019).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

395
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HS-ST ngày 23/07/2019 về tội giết người

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về