Bản án 215/2018/HNGĐ-ST ngày 06/03/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 215/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/03/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 06/3/2018 tại Tòa án nhân dân Quận 12 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 477/2017/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2018/QĐXX-ST ngày 12/01/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2018/QĐXX-ST ngày 06/02/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thanh H, sinh năm: 1993 ( Có mặt); Địa chỉ: tổ 50, khu phố 5, phường A, Quận P, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu K, sinh năm 1992 ( Vắng mặt);

Địa chỉ: tổ 49B, khu phố 7, phường A, Quận P, Tp. Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 19/4/2017 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Trần Thị Thanh H trình bày:

Bà và ông K tự nguyện tìm hiểu, rồi tiến đến hôn nhân. Đến ngày 18/10/2013 hai ông bà đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, Quận P (Số: 228/2013; Quyển số: 01/2013). Thời gian đầu bà và ông K sống hạnh phúc, nhưng về sau hai bên xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống vì ông K thường xuyên vắng nhà, không quan tâm chăm sóc gia đình,không lo làm ăn kinh tế. Hiện tại bà và ông K đã sống ly thân. Nay bà H xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông K, mâu thuẫn đã tới mức trầm trọng, không thể hàn gắn được nữa, cuộc sống chung không hạnh phúc nên bà yêu cầu được ly hôn với ông K.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Trần Phúc T, sinh ngày05/11/2013. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ôngK cấp dưỡng.

- Tài sản chung: vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung không có.

Tại bản tự khai ngày 05/5/2017; Biên bản hòa giải ngày 05/5/2017 của Tòa án Quận P, bị đơn ông Nguyễn Hữu K đều xác nhận lời trình bày của bà Trần Thị Thanh H về mâu thuẫn vợ chồng, con chung, tài sản chung là hoàn toàn đúng. Ông K đồng ý với yêu cầu ly hôn của bà H. Tuy nhiên, ông K lại yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Trần Phúc T, sinh ngày 05/11/2013 cho đến khi con chung trưởng thành, không yêu cầu bà H cấp dưỡng.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành. Do vậy, Tòa án tiến hành xét xử ngày hôm nay.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; người tham gia tố tụng dân sự chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về thời hạn giải quyết vụ án thì chưa đảm bảo theo quy định, cần xem xét rút kinh nghiệm. Về việc giải quyết nội dung vụ án, kiểm sát viên nhận thấy tất cả các yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do bị đơn đang cư ngụ tại Quận 12 nên căn cứ vào điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 12.

Ông Nguyễn Hữu K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Tòa án căn cứ điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự , xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định pháp luật.

2. Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bà Trần Thị Thanh H và ông Nguyễn Hữu K tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, Quận P (Số: 228/2013; Quyển số: 01/2013) vào ngày 18/10/2013. Theo quy định tại Luật hôn nhân gia đình năm 2014, thì hôn nhân giữa bà H và ông K là đảm bảo giá trị pháp lý.

Nay bà H yêu cầu xin ly hôn với ông K do mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn. Qua thực tế xác minh của Tòa án tại địa phương được biết “ Bà Trần Thị Thanh H và ông Nguyễn Hữu K thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do ông K không chịu đi làm lo cho gia đình, mọi việc trong gia đình, chi tiêu sinh hoạt bà H phải chịu, mặc dù bà H đã nhiều lần khuyên can nhưng ông K không chịu thay đổi dẫn đến việc bà và ông K ly thân từ tháng 03/2015 cho đến nay”.

Như vậy, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông K là có thật, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của bà H là có cơ sở để chấp nhận.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Trần Phúc T, sinh ngày 05/11/2013. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông K cấp dưỡng. Tại đơn xác minh ngày 29/12/2017 của Tòa án Quận 12 tại địa phương thì được biết “ hai người có 01 con chung tên Nguyễn Trần Phúc T, sinh năm 2013. Hiện bé T đang sống chung với mẹ”.

Tại Đơn chứng minh đủ điều kiện nuôi con sau ly hôn ngày 06/12/2017 của bà Trần Thị Thanh H gửi đến Tòa án Quận 12, trong đơn có xác nhận của Công ty TNHH May SK, nơi bà H đang làm việc thì mức thu nhập hằng tháng của bà H là từ 5.500.000đ đến 7.000.000đ. Ngoài khoản thu nhập đó, bà H còn có những khoản tiền thưởng, tiền làm thêm ngoài giờ.

Ông Nguyễn Hữu K đồng ý với yêu cầu ly hôn của bà H, nhưng lại yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Trần Phúc T, sinh ngày 05/11/2013 cho đến khi con chung trưởng thành, không yêu cầu bà H cấp dưỡng, nhưng ông K lại không cung cấp chứng cứ cho yêu cầu của mình theo Quyết định cung cấp chứng cứ sô 89/2017/TB-BSCC ngày 24/5/2017 của Tòa án nhân dân Quận 12.

Xét thấy, con chung của bà H và ông K vẫn đang còn nhỏ, cần sự chăm sóc, quan K đặc biệt từ mẹ, hiện tại, bà H đang là người trực tiếp nuôi con, bà H cũng đã cung cấp chứng cứ về việc đầy đủ khả năng nuôi con của mình nên yêu cầu của bà H là chính đáng, có cơ sở chấp nhận.

Về tài sản chung: vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung không có.

Về án phí hôn nhân sơ thẩm: 300.000đ ( Ba trăm nghìn) đồng bà Trần Thị Thanh H phải nộp, được cấn trừ vào biên lai thu số AA/2016/0024219 ngày28/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

- Căn cứ Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Bà Trần Thị Thanh H được ly hôn với ông Nguyễn Hữu K.

2. Về con chung: Bà Trần Thị Thanh H được trực tiếp nuôi dưỡng con chungtên Nguyễn Trần Phúc T, sinh ngày 05/11/2013 cho đến khi con chung trưởng thành.

Ông K không cấp dưỡng nuôi con.

Không ai được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung. Vì quyền lợi mọi mặt của người con, khi cần thiết có thể xin thay đổi người nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: không có tài sản chung, nợ chung không có.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn) đồng bà Trần Thị Thanh H phải nộp, được cấn trừ vào biên lai thu số AA/2016/0024219 ngày 28/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày được tính kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 215/2018/HNGĐ-ST ngày 06/03/2018 về ly hôn

Số hiệu:215/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 12 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về