Bản án 216/2018/HNGĐ-ST ngày 20/08/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 216/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 20 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 133/2018/HNGĐ-ST, ngày 28/5/2018, về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 01/8/2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1969;

Địa chỉ: Xóm 00, xã T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

* Bị đơn: Anh Mai Đức T, sinh năm 1963;

Địa chỉ: Xóm 00, xã T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày: Chị và anh Mai Đức T kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 11/3/1989 tại UBND xã T, thị xã T, tỉnh Hà Tuyên (nay là thành phố T, tỉnh Tuyên Quang). Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống tại xã T, thành phố T. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, đến năm 2005 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T có quan hệ trai gái bên ngoài, chị đã bắt gặp và đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh T không thay đổi, còn đánh đập, tra tấn tinh thần, đuổi chị ra khỏi nhà trước mặt con cái. Mâu thuẫn của anh chị đã được xóm xã hòa giải nhiều lần nhưng anh T chứng nào tật nấy. Đầu năm 2018 chị cũng đã nộp đơn ly hôn anh T gửi Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang. Quá trình Tòa án báo gọi lên giải quyết, chị đã rút đơn xin ly hôn để cho anh T cơ hội sửa chữa, vợ chồng về đoàn tụ. Tuy nhiên anh T không thay đổi, mâu thuẫn vợ chồng vẫn trầm trọng, không có tiếng nói chung. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và tiếp tục cùng chung sống với nhau được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là Mai Việt Đ, sinh ngày 15/11/1989 và Mai Đức T, sinh ngày 14/3/1997, hiện đã trưởng thành, có cuộc sống riêng, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị và anh T có một số tài sản chung, chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về vay nợ: Chị và anh T không vay ai hay cho ai vay nợ, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn anh Mai Đức T trình bày: Anh và chị Phạm Thị H kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 11/3/1989 tại UBND xã T, thị xã T, tỉnh Hà Tuyên (nay là thành phố T, tỉnh Tuyên Quang). Sau khi kết hôn anh chị chung sống với nhau tại xã T, thành phố T. Cuộc sống tình cảm vợ chồng thời gian đầu không có vấn đề gì, sau này vợ chồng anh chị cũng có mâu thuẫn và vài khúc mắc do trước đây anh có chút quan hệ ngoài xã hội, nhưng vợ chồng đã cho nhau cơ hội, bỏ qua lỗi lầm của nhau. Lần gần đây nhất chị H nghi ngờ anh có người phụ nữ khác, nhưng anh khẳng định anh không làm gì có lỗi với vợ con, chị H không tin anh, mỗi lần cãi nhau chị H lại đào sới lại chuyện cũ, vợ chồng không chia sẻ được với nhau trong cuộc sống và tình cảm. Chị H nói anh nhiều lần đánh đập, đuổi chị ra khỏi nhà là không đúng, đôi lúc vợ chồng mâu thuẫn cãi nhau, anh có xô sát, có tát chị trước mặt con cái để thể hiện anh không sai. Anh đề nghị Tòa án xem xét sự việc theo hướng hai chiều, mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ phía cả hai phía, chứ không thể từ phía anh được, vì bản thân chị H có lần bỏ nhà đi 06 tháng, khi trở về anh cũng đã tha thứ để vợ chồng cùng đoàn tụ. Nay chị H yêu cầu ly hôn, anh không nhất trí. Anh muốn vợ chồng cho nhau cơ hội hóa giải lỗi lầm, cùng đoàn tụ để làm chỗ dựa cho con cái.

Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là Mai Việt Đ, sinh ngày 15/11/1989 và Mai Đức T, sinh ngày 14/3/1997, hiện đã trưởng thành, có cuộc sống riêng, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh và chị H có một số tài sản chung, anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về vay nợ: Anh và chị H không vay ai hay cho ai vay nợ, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh tại địa phương xóm 00 và xóm 11 xã T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang thể hiện: Chị Phạm Thị H và anh Mai Đức T là vợ chồng có đăng ký kết hôn năm 1989 tại UBND xã. Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống với nhau tại xóm 00, xã T. Đến năm 2008 thì chuyển về ở xóm 11, xã T, thành phố T. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị không có hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T có quan hệ trai gái bên ngoài, vợ chồng ghen tuông, đánh chửi nhau. Chị H nhiều lần nộp đơn ly hôn anh T gửi xóm, xã. Xóm cũng đã hòa giải cho anh chị, chị H đã rút đơn về, vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian thì lại phát sinh mâu thuẫn. Đã có thời gian chị H bỏ nhà đi, vợ chồng ly thân nhau, không ai quan tâm gì đến ai. Về con chung, vợ chồng anh chị có 02 con chung là Mai Việt Đ, sinh ngày 15/11/1989 và Mai Đức T, sinh ngày 14/3/1997, hiện đã trưởng thành. Về tài sản chung, chị H và anh T có tài sản chung là nhà và đất ở xóm 11, xã T, thành phố T. Về nợ chung anh, chị không vay nợ hay cho ai vay nợ.

Tại bản tự khai của Mai Việt Đ và Mai Đức T là con chung của chị Phạm Thị H và anh Mai Đức T thể hiện: Mâu thuẫn vợ chồng của chị Phạm Thị H và anh Mai Đức T là gay gắt, trầm trọng. Nguyên nhân là do anh T có người đàn bà khác, gia đình đã nhiều lần bắt được, anh T không biết lỗi còn kiếm cớ đánh đập, chửi bới chị H trước mặt các con. Gia đình cũng đã khuyên ngăn anh T, nhưng anh T không thay đổi mà còn công khai hơn trước. Nay trước việc chị H xin ly hôn anh T quan điểm của các con là nhất trí để bố mẹ ly hôn vì thấy rằng, trong việc này chị H là người rất khổ, bị ảnh hưởng đến tâm lý cũng như sức khỏe, hai bên nên giải phóng cho nhau để đảm bảo cuộc sống của đôi bên.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự và ý kiến về việc giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký Toà án từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, của Hội đồng xét xử từ khi mở phiên toà đến khi kết thúc đều thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Vê việc giải quyết vụ án: Đề nghi HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H, xử cho chị H và anh Mai Đức T ly hôn. Về con chung, chị H và anh T có 02 con chung là Mai Việt Đ, sinh ngày 15/11/1989 và Mai Đức T, sinh ngày 14/3/1997 đều đã trưởng thành, có cuộc sống riêng nên không đề nghị xem xét giải quyết. Về tài sản, chị H và anh T tự thỏa thuận, không đề nghị xem xét giải quyết. Về vay nợ, chị H và anh T xác định vợ chồng không vay nợ chung, không yêu cầu nên không đề nghị xem xét giải quyết. Về án phí, chị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Mai Đức T tìm hiểu và kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 11/3/1989 tại UBND xã T, thị xã T, tỉnh Hà Tuyên (nay là thành phố T, tỉnh Tuyên Quang), như vậy quan hệ hôn nhân của anh chị là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, tình cảm vợ chồng hạnh phúc, đến năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chị H xác định là do anh T đã có quan hệ với người khác, chị H bắt được, khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T không thay đổi, dẫn đến vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn xô xát, đánh cãi chửi nhau. Chị H và anh T bất đồng quan điểm, không chia sẻ được với nhau trong cuộc sống và tình cảm mâu thuẫn vợ chồng của anh chị đã được gia đình, chính quyền xóm xã hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Đầu năm 2018 chị H đã khởi kiện xin ly hôn anh T, quá trình Tòa án giải quyết vụ án, chị H đã rút đơn xin ly hôn để cho anh T cơ hội sửa chữa, vợ chồng về đoàn tụ. Tuy nhiên mâu thuẫn vợ chồng vẫn trầm trọng, không cải thiện hàn gắn được, chị H tiếp tục xin ly hôn. Như vậy xét quan hệ hôn nhân của chị H và anh T thấy rằng mâu thuẫn đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H, xử cho chị H được ly hôn với anh T là phù hợp quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

 [2]. Về con chung: Chị H và anh T có 02 con chung là Mai Việt Đ, sinh ngày15/11/1989 và Mai Đức T, sinh ngày 14/3/1997, hiện đã trưởng thành, không yêu cầu Toà án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

 [3]. Về tài sản chung: Chị Hvà anh T xác định vợ chồng có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận không yêu cầu Toà án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [4]. Về vay nợ: Chị H và anh T xác định không vay nợ ai, không cho ai vay nợ không yêu cầu Toà án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [5]. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Anh Mai Đức T không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

 [6]. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; các Điều 147, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;Điều 51; 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng12 năm 2016 của Quốc hội.

- Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H. Xử cho chị Phạm Thị H vàanh Mai Đức T ly hôn.

2. Án phí: Chị Phạm Thị H có nghĩa vụ nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0005216 ngày 28/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Chị H đã nộp đủ án phí. Anh Mai Đức T không phải chịu án phí.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt taị phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 216/2018/HNGĐ-ST ngày 20/08/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:216/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về