Bản án 216/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 216/2019/HS-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 221/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 212/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Võ Thị N, sinh ngày 23/10/2002 tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp P, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu; chỗ ở: Nhà trọ số ô 15, DC 53, đường D thuộc khu phố X, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn N, sinh năm 1977 và bà Võ Thị Tuyết M, sinh năm 1978; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 25/6/2019 cho đến nay. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo N: Ông Võ Văn N, sinh năm 1977 và bà Võ Thị Tuyết M, sinh năm 1978; cùng cư trú: Ấp P, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu (Là cha mẹ ruột của bị cáo). Ông N vắng mặt, bà M có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thị Diễm H, Văn phòng Luật sư D thuộc Đoàn luật sư tỉnh B. Có mặt.

Người làm chứng: Bà Lê Thúy D. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 30 phút ngày 25 tháng 6 năm 2019, Công an thị xã Thuận An kết hợp cùng Công an phường A, thị xã T tiến hành kiểm tra hành chính trên địa bàn phường A. Khi kiểm tra phòng trọ do Võ Thị N thuê ở số 02, lầu 1, nhà trọ số ô 15, DC 53, đường D thuộc khu phố X, phường A, thị xã T thì N tự nguyện mở va ly màu đỏ của mình giao nộp cho Cơ quan Công an 01 túi ny lon miệng kéo dính, bên trong có chứa 03 nửa viên thuốc lắc (02 nửa viên màu vàng và 01 nửa viên màu hồng). Qúa trình điều tra, N khai nhận 03 nửa viên thuốc lắc do N làm phục vụ bàn tại quán Karaoke ZoZo thuộc phường T, thị xã T thì được một nam thanh niên cho cách nay khoảng 02 tháng. Mục đích cất số ma túy trên là để sử dụng. Cơ quan Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Theo kết luận giám định số 504/MT-PC09 ngày 03/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu 02 nửa viên nén màu vàng và 01 nửa viên nén màu hồng gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3844 gam (M1) và 0,1809 gam (M2), loại MDMA. Tổng (M1 + M2) = 0,5653 gam, loại MDMA.

Bản Cáo trạng số 236/CT-VKS-TA ngày 29/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Võ Thị N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 valy màu đỏ, 01 bì thư đã niêm phong ký hiệu 504/MT-PC09 (mẫu vật hoàn lại sau giám định).

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, do hoàn cảnh gia đình, thiếu sự quan tâm, giáo dục của cha mẹ nên bị cáo nhất thời phạm tội, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo bị cáo Võ Thị N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản kiểm tra hành chính, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người làm chứng có đủ cơ sở kết luận:

Vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại phòng trọ số 02, lầu 1, nhà trọ số ô 15, DC 53, đường D thuộc khu phố X, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương, qua kiểm tra đã phát hiện, bắt qua tang bị cáo N đang tàng trữ trái phép khối lượng 0,5653 gam ma túy, loại MDMA. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy đã tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là vi phạm nhưng vì thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố tình thực hiện, cất giấu ma túy để sử dụng, hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định về chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác, hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự, trị an tại địa phương, do đó, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng tính chất, hành vi phạm tội, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên áp dụng Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) khi quyết định hình phạt.

[8] Lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[9] Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo về việc xử phạt bị cáo dưới mức đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là không có cơ sở chấp nhận vì hiện nay tình hình tội phạm về ma túy ngày càng xảy ra nhiều, tính chất càng phức tạp.

[10] Đối với đối tượng cho bị cáo ma túy hiện không xác định được nhân thân, lai lịch, khi nào làm rõ xử lý sau.

[11] Đối với Lê Thúy D là người ở chung phòng trọ với bị cáo nhưng không biết việc bị cáo cất giấu ma túy nên không có căn cứ xử lý.

[12] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Điều tra thu giữ: 01 valy màu đỏ đựng ma túy, không còn giá trị sử dụng; khối lượng ma túy còn lại sau giám định 0,2946 gam (chứa trong 01 bì thư đã niêm phong ký hiệu 504/MT-PC 09) là chất cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

[13] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Võ Thị N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt bị cáo Võ Thị N 11 (mười một) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/6/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

Tch thu, tiêu hủy: 01 valy màu đỏ; 01 bì thư được niêm phong, ghi vụ số 504/MT-PC09 (mẫu vật hoàn lại sau giám định) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/8/2019).

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 216/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:216/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về