Bản án 220/2019/HSST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 220/2019/HSST NGÀY 02/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 235/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 225/2019/QĐ-TA ngày 17 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Tr; Sinh năm: 1986 tại Hà Nội; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Tổ dân phố 1, phường X, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ và tên bố: Nguyễn Th; Sinh năm: 1954; Họ và tên mẹ: Trần Thị H; Sinh năm: 1954; Họ và tên vợ: Nguyễn Thị N; Sinh năm: 1988; Có một con sinh năm 2008; Tiền sự: Không; Tiền án: Tại Bản án số 28/2019/HSPT ngày 10/01/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng kể từ ngày 10/01/2019 về tội “Cố ý gây thương tích”; Bị bắt quả tang và giam giữ ngày 08/6/2019 tại Trại tạm giam số 1 Công an TP Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Qua mối quan hệ bên ngoài xã hội, bị cáo Nguyễn Tr biết đối tượng “Hiếu” ở số nhà 12, ngõ 522, đường Trường Chinh, phường Khương Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội bán ma túy. Ngày 06/6/2019, bị cáo đến nhà “Hiếu” ở địa chỉ trên, ấn chuông cửa thì có một người bịt khẩu trang đi ra, bị cáo đưa số tiền 500.000 đồng qua ô cửa cổng thì người đó cầm và đưa lại cho bị cáo một gói ma túy. Bị cáo mang về, sử dụng một ít, số còn lại cất vào trong ví của mình. Khoảng 10h ngày 08/6/2019, bị cáo đi xe máy đến nhà “Hiếu” mua ma túy để sử dụng. Cũng bằng cách thức như trên, bị cáo mua 300.000 đồng được một gói ma túy. Bị cáo cất gói ma túy mua được vào trong ví cùng với gói ma túy còn từ trước và đi về nhà bị cáo tổ dân phố 1, phường X, quận Bắc Từ Liêm. Về đến nhà, đã xảy ra mâu thuẫn và cãi vã giữa bị cáo với bố mẹ bị cáo nên 11 giờ 30 phút cùng ngày, Công an phường X đến nhà bị cáo để giải quyết. Trong khi làm việc với Công an phường, bị cáo tự nguyện nộp hai gói nilong bên trong chứa ma túy giấu trong ví.

Tại Kết luận giám định số 3762/KLGĐ-PC09 ngày 14/6/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội đã kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 02 gói nilong đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,420 gam.

Tại số nhà 12 ngõ 522 đường Trường Chinh, phường Khương Thượng, quận Đống Đa không có ai tên “Hiếu” đăng ký hộ khẩu hoặc cư trú tại đó như bị cáo khai và “Hiếu” bịt khẩu trang khi bán ma túy cho bị cáo nên bị cáo không nhận dạng được.

Tại Cáo trạng số 212/CT-VKS ngày 11/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố bị cáo Nguyễn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 65 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tr mức án từ 20 đến 24 tháng tù, tổng hợp với hình phạt 18 tháng tù tại Bản án số 28/2019/HSPT ngày 10/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử phạt bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 38 đến 42 tháng tù; Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Hồi 11 giờ 30 phút ngày 08/6/2019, tại tổ dân phố 1, phường X, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, bị cáo Nguyễn Tr đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,42 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt áp dụng đối với bị cáo được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo biết ma túy là chất gây nghiện, làm tổn hại sức khỏe con người đặc biệt là sức khỏe tâm thần của người sử dụng, là mầm mống gây ra nhiều loại tội phạm khác, bị Nhà nước đã cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ… trái phép nhưng bị cáo vẫn mua, tàng trữ để sử dụng.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số 28/2019/HSPT ngày 10/01/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 36 tháng kể từ ngày 10/01/2019. Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách, chưa được xóa án tích nên phạm tội thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, đang được điều trị bằng Methadol tại Trung tâm y tế quận Nam Từ Liêm nhưng vẫn tàng trữ ma túy để sử dụng.

Về hình phạt chính: Cần áp dụng hình phạt tù nghiêm, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo tính giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của án treo nên áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 18 tháng tù tại Bản án số 28/2019/HSPT ngày 10/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và tổng hợp hình phạt của bản án này theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo là chất gây nghiện, bị nhà nước cấm lưu hành không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cơ quan kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các quyền nghĩa vụ của mình, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, khởi tố, kết luận điều tra, truy tố theo đúng tội danh, khung hình phạt.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Điều luật áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56; Điều 65; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106;

Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí

3. Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tr 20 (Hai mươi) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt tại Bản án số 28/2019/HSPT ngày 10/01/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử phạt bị cáo 18 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 38 (Ba mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/6/2019.

4. Về hình phạt bổ sung: Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy đã giám định (Ma túy loại Methaphetamine) bên ngoài có chữ ký của bị cáo và giám định viên (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/9/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm) .

5. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 220/2019/HSST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:220/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về