Bản án 221/2018/HSST ngày 14/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 221/2018/HSST NGÀY 14/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14/9/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa - TAND thành phố Thanh Hóa đưa ra xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 308/2018/HSST ngày 13/8/2018 đối với bị cáo:

Cao Sỹ L: sinh 1978; nơi cư trú: khu phố D, phường T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông: Cao Sỹ L1 - sinh 1956, con bà: Lê Thị M - sinh 1957; có vợ: Hoàng Thị Anh M, sinh 1983 (đã ly hôn), có 01 con sinh 2002; tiền án, tiền sự: không; Tạm giữ từ ngày 08/6/2018 đến 13/6/2018 chuyển tạm giam; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Thanh Hóa; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23h ngày 07/6/2018, tổ công tác Công an phường Đ phối hợp với tổ tuần tra số 3 - Công an thành phố T đang làm nhiệm vụ tại ngõ 71 phố L, phường Đ, thành phố T phát hiện Cao Sỹ L có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Qua kiểm tra, Cao Sỹ L đã tự giác giao nộp 01 gói nilon màu trắng, kích thước 1,5 x 2cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng (L khai là ma túy đá) L tàng trữ mục đích để sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 1051/MT-PC54 ngày 11/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: các hạt tinh thể (dạng đá) màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,250g, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Cao Sỹ L khai nhận: do bản thân nghiện ma túy nên đêm ngày 07/6/2018 L đi đến cầu L (phường Đ, thành phố T) mua của một người thanh niên không quen biết 150.000đ được 01 gói ma túy. Sau khi mua, L cầm trên tay đang đi tìm nơi sử dụng, khi đi đến ngõ 71 phố L, phường Đ, thành phố T thì bị Công an bắt giữ.

Đối tượng bán ma túy cho L do L không biết tên tuổi, địa chỉ, do đó không có cơ sở xác minh, xử lý.

Tại bản cáo trạng số 215/CT-VKS-MT ngày 13/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Cao Sỹ L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND thành phố T vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối  với bị cáo và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS; Xử phạt: Cao Sỹ L từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/6/2018. Về tang vật: áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo Cao Sỹ L nhận tội, không có ý kiến tự bào chữa và tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

  [2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận:do bị bệnh nên bị cáo hay sử dụng ma túy để giảm đau. Vào khoảng 23h ngày 07/6/2018, sau khi mua ma túy tại khu vực cầu L (phường Đ, thành phố T) bị cáo đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến ngõ 71 phố L, phường Đ, thành phố T thì bị cơ quan Công an kiểm tra, bị cáo đã giao nộp 01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng là ma túy đá bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa hôm nay. Theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự: "Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Hêrôin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam".

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,250g của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS như Quyết định truy tố và luận tội của Đại diện VKSND thành phố Thanh Hóa là có căn cứ pháp luật.

 [3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: nhận thức được tác hại của ma túy và việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do bản thân nghiện ma túy bị cáo đã mua lại ma túy của người khác để sử dụng thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất gây nghiện, tiếp tay làm gia tăng tệ nạn, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải xử lý nghiêm minh, cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

 [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo:

+ Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

+ Tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Vì vậy, khi quyết định hình phạt HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở thành người công dân tốt.

 [5] Về hình phạt bổ sung: bị cáo là đối tượng nghiện, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [6] Về tang vật: số ma túy còn lại sau giám định là chất không được phép sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Cao Sỹ L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Cao Sỹ L 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (08/6/2018).

Về vật chứng: áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy 0,225g Methamphetamine còn lại sau giám định, đựng trong 01 phong bì niêm phong của Phòng KTHS - Công an tỉnh Thanh Hóa, được đóng dấu của Phòng KTHS - Công an tỉnh Thanh Hóa, có chữ ký và chữ viết của Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lại Thị Thanh L;

Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/8/2018 giữa Cơ quan Công an thành phố Thanh Hóa với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Áp dụng: khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Mục 1 phần I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 221/2018/HSST ngày 14/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:221/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về