Bản án 221/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN - TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 221/2019/HS-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại Hội trường, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 197/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 04 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 239/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, sinh năm 1960. Nơi ĐKHKTT: xóm M, xã T, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: lớp 07/10; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Nguyễn Văn T (đã chết); Con bà: Ngô Thị H, sinh năm 1930; Gia đình có 07 anh, em, bị cáo là thứ hai; Có vợ: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1960; Có 03 con, lớn sinh năm 1979, nhỏ sinh năm 1987. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:Tại bản án số 30/HSST, ngày 22/12/1984, Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân thị xã Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản XHCN và tài sản riêng của công dân”.

Tại bản án số 477/HSST, ngày 24/12/1996, Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 12 tháng 12 tháng tù giam về tội “ Hủy hoại tài sản công dân”. Đã chấp hành xong tháng 01/1999.

Tại bản án số 268/HSST, ngày 30/12/2002, Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 07 năm tù giam về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” . Đã chấp hành xong ngày 08/7/2009.

Tại bản án số 55/2005/HSST, ngày 21/10/2005, Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù giam về tội “ Trốn khỏi nơi giam”. Đã chấp hành xong ngày 06/10/2009.

Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên từ ngày 12/02/2019 đến nay (có mặt tại phiên tòa).

* Người chứng kiến:

- Anh Phạm Văn C, sinh năm 1965 (vắng mặt tại phiên tòa)

HKTT: Tổ T, phường TĐ, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 00 phút ngày 12/02/2019, tổ công tác của Công an phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực tổ E của phường phát hiện một người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông khai nhận tên là Nguyễn Văn L và tự giác giao nộp trong túi quần bên trái 01 gói giấy màu xanh đỏ bên trong chứa chất bột màu trắng (L khai đó là Heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn L có khối lượng 0,234 gam và lấy mẫu vật gửi giám định ký hiệu A.

Tại bản kết luận giám định số 405/KL-PC09 ngày 19/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu giám định A thu giữ của Nguyễn Văn L là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,234 gam. 

Vật chứng của vụ án gồm: 01 Bì niêm phong ký hiệu A (bên trong chứa ma túy). Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 202/CT-VKSTPTN ngày 05/4/2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay Nguyễn Văn L khai nhận: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 12/02/2019, L đi bộ từ nhà của mình đến khu vực tổ E, phường TĐ, thành phố TH để tìm mua Heroine. Tại đây, L gặp và mua một gói Heroine từ hai người đàn ông không rõ lai lịch với giá 50.000 đồng. Khi đi đến khu vực cổng vào Chùa Đ thuộc tổ E, phường TĐ, thành phố TH thì bị tổ công tác Công an phường Thịnh Đán phát hiện, L tự giác giao nộp cho tổ công tác một gói giấy màu xanh đỏ bên trong chứa chất bột màu trắng từ trong túi quần bên trái L đang mặc. Sau đó, Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Kết thúc thẩm vấn, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn L từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 BLTTHS; Điều 47 BLHS: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu A. Bị cáo phải nộp án phí theo quy định.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ mức án.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn L không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 10 giờ 00 phút ngày 12/02/2019, tại khu vực tổ E, phường TĐ, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên, bị cáo có hành vi cất giữ tại túi quần bên trái đang mặc 0,234gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt giữ.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ.

[3]. Về tính chất, mức độ, hành vi: Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức đầy đủ về tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do bản thân nghiện ma túy nên đã bất chấp pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xét xử về các loại tội phạm, trong đó có tội phạm về ma túy; bị cáo nghiện ma túy từ năm 1984 đến nay nhưng không lấy đó làm bài học mà ngày càng lao vào con đường phạm tội. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 BLHS. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015.

Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp.

Về nguồn gốc số Nguyễn Văn L bị thu giữ bị cáo khai mua của hai người đàn ông (không rõ lai lịch địa chỉ) nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, nên miễn hình phạt này cho bị cáo.

[5]. Về vật chứng vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu A, xét thấy đây là vật chứng phạm tội cần tịch thu, tiêu hủy.

[6]. Bị cáo phải nộp án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

1. Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

- Xử phạt Nguyễn Văn L 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/02/2019.

Căn cứ Điều 329 BLTTHS: Quyết định tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A bên trong có chứa Heroin.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 234 ngày 01/4 /2019 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 221/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:221/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về