Bản án 22/2017/HNGĐ-ST ngày 28/12/2017 về ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 22/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2017 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 28 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở TAND huyện Nghĩa Đàn – tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 135/2017/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2017về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2017/QĐXX-ST ngày 27 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:

1.  Nguyên đơn: Chị Võ Thị Q, sinh năm 1984. Có mặt.

Địa chỉ: xóm Tân Ph – xã Nghĩa Th – huyện Nghĩa Đàn – tỉnh Nghệ An.

2.  Bị đơn: Anh Võ Kiên C, sinh năm 1982. Vắng mặt.

Địa chỉ: xóm Tân Ph – xã Nghĩa Th – huyện Nghĩa Đàn – tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày  13/10/2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Võ Thị Q trình bày: Chị Võ Thị Q và anh Võ Kiên C tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa Th - huyện Nghĩa Đàn - tỉnh Nghệ An vào ngày 06 tháng 04 năm 2007. Hôn nhân được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng sống không được hạnh phúc. Nguyên nhân là do anh C chơi bời, ngiện ngập không quan tâm chăm sóc đến gia đình vợ con và còn thường xuyên đánh đập chị Q. Chị Q đã bỏ về bên ngoại sống nhiều năm nay vợ chồng đã sống ly thân không còn quan tâm chăm sóc đến nhau nữa, Nay chị Q xét thấy tình cảm vợ chồng không còn và xin được ly hôn anh C.

Về con cái: vợ chồng có 02 con chung là Võ Quang H sinh ngày 11 tháng01 năm 2008 và Võ Quang V sinh ngày 05/9/2010. Nếu ly hôn chị Q có nguyện vọng xin được nuôi cả 02 con chung lý do là anh C nghiện ngập ma túy nhiều năm không có công ăn việc làm ổn định nên giao con cho anh C nuôi chị Q không yên tâm. Về cấp dưỡng chị Q không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung:chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, không có.

Anh Võ Kiên C vắng mặt tại phiên tòa nhưng có bản khai trình bày: Anh và chị Võ Thị Q tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa Th - huyện Nghĩa Đàn - tỉnh Nghệ An vào ngày 06 tháng 04 năm 2007. Quá trình chung sống theo anh là vợ chồng không có mâu thuẫn gì. Anh C vẫn còn tình cảm với chị Q và xin được đoàn tụ.

Về con cái:vợ chồng có 02 con chung là Võ Quang H sinh ngày 11 tháng 01 năm 2008 và Võ Quang V sinh ngày 05/9/2010. Nếu ly hôn anh C có nguyện vọng xin được nuôi cả 02 con chung và yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung, không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết..

Ý kiến của kiểm sát viên: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của chị Q là cho chị Q được ly hôn với anh C. Về con cái : giao cho chị Q được nuôi 02 con chung là cháu Võ Quang H và Võ Quang V;Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Võ Kiên C.Về tài sản chị Q và anh C không có yêu cầu nên không xem xét; Về án phí áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc chị Qphải nộp án phí về việc ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết: Xác định quan hệ tranh chấp giữa chị Võ Thị  Q và anh Võ Kiên C là “Ly hôn” thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân giữa chị Võ Thị Q và anh Võ Kiên C là hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa Th - huyện Nghĩa Đàn - tỉnh Nghệ An vào ngày 06 tháng 04 năm 2007 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian đầu thì  phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng sống không hợp nhau, không cùng nhau có ý thức xây dựng cuộc sống gia đình thường xuyên cãi cọ chửi bới đánh đập nhau. Vợ chồng đã sống ly thân nhiều năm không còn quan tâm đến nhau nữa. Mặc dù anh C cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì, anh vẫn đang còn tình cảm với chị Q và xin được đoàn tụ nhưng anh C không đưa ra được giải pháp gì để hàn gắn quan hệ vợ chồng. Nay vợ chồng vẫn sống ly thân. Chị Q vẫn nhất quyết xin ly hôn. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị  Võ Thị Q và anh Võ Kiên C là trầm trọng, kéo dài mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy cần căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp thuận yêu cầu của chị Võ Thị Q là cho chị Võ Thị Qn được ly hôn với anh Võ Kiên C. Bác yêu cầu xin đoàn tụ của anh Võ Kiên C.

[3]. Về con chung: vợ chồng có 02 con chung là Võ Quang H sinh ngày 11 tháng 01 năm 2008 và Võ Quang V sinh ngày 05/9/2010. Nếu ly hôn anh C và chị Q đều có nguyện vọng xin được nuôi con. Chị Q không yêu cầu cấp dưỡng còn anh C yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Cháu Võ Quang H và Võ Văn V có nguyện vọng ở với bố. Xét thấy nguyện vọng xin được nuôi con của chị Q và anh C là chính đáng tuy nhiên cần xem xét về điều kiện hoàn cảnh của từng người cũng như nguyện vọng của các con để các con được sống trong môi trường tốt nhất. Do vậy căn cứ vào các điều kiện trên thì cần giao con chung cho chị Q được trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Võ Kiên C do chị Q không yêu cầu.

[4]. Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị Q phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 28; điều147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; điều 56; điều 82; điều 83; điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Võ Thị Q là cho chị Võ Thị Q được ly hôn anh Võ Kiên C. Bác yêu cầu xin đoàn tụ của anh Võ Kiên C.

2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Võ Thị Q được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung là cháu Võ Quang H sinh ngày 11/01/2008 và cháu Võ Quang V sinh ngày 05/09/2010 cho đến khi con chung đã thành niên, có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh C vì chị Q không yêu cầu.

Anh C có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở ngăn cấm.Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật thì có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản: Đương sự không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Chị Võ Thị Q phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu số 0004522 ngày 13 tháng 10 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nghĩa Đàn.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị Võ Thị Q được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt anh Võ Kiên C được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2017/HNGĐ-ST ngày 28/12/2017 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:22/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về