Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 11/05/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 22/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 11-5-2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 61/2018/TLST-HNGĐ ngày 16-3-2018, về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 19-4-2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2018/QĐST-HNGĐ ngày 03-5-2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lý V; Tên gọi khác: Lý Thị SV; Sinh ngày: 19-6-1995; Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Lâm Đ; Sinh năm: 1991; Địa chỉ cư trú: Ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn khởi kiện ngày 26-02-2018, Biên bản lấy lời khai đương sự ngày 03-4-2018 và Đơn yêu cầu Tòa án nhân dân xét xử vắng mặt ngày 03-5-2018, nguyên đơn Lý V (Tên gọi khác: Lý Thị SV) trình bày như sau: Bà Lý V và ông Lâm Đ tự nguyện kết hôn vào năm 2014, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 01, Quyển số 01/2014 ngày 03-01-2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng bà V, ông Đ đi tỉnh Bình Dương làm thuê nhưng ông Đ không chí thú làm ăn nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân với nhau từ tháng 4-2017 đến nay. Vợ chồng bà V, ông Đ có một người con chung là Lâm Lý K, sinh ngày 28-9-2014, hiện nay cháu K sống chung với bà V. Hiện nay, vợ chồng bà V, ông Đ không có tài sản chung và nợ chung. Nay bà V yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Đ. Về con chung, bà V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lâm Lý K đến khi thành niên và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng cho con chung vì bà V đủ khả năng kinh tế để nuôi dưỡng con chung. Về tài sản chung và nợ chung, bà V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập bị đơn Lâm Đ nhiều lần để cung cấp lời khai về vụ án, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng ông Đ đều vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thu thập được lời khai của ông Đ về vụ án.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề tại phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử,

Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đối với bị đơn không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án là chưa thực hiện đúng nghĩa vụ theo Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về việc giải quyết vụ án: Xét thấy tình cảm vợ chồng bà Lý V, ông Lâm Đ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của bà V cho vợ chồng bà V, ông Đ ly hôn. Về con chung, xét yêu cầu của bà V là phù hợp với điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên của bà V, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng Lâm Lý K đến khi thành niên, đồng thời do bà V không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng cho con chung nên không buộc ông Đ phải cấp dưỡng cho con chung. Ngoài ra, buộc bà V chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về thủ tục thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn: Ngày 08-3-2018, Tòa án nhân dân huyện Trần Đề nhận được Đơn khởi kiện ngày 26-02-2018 của bà Lý V cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo do bà V nộp trực tiếp tại Tòa án. Ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án thực hiện thủ tục nhận, xử lý đơn khởi kiện của bà V và thụ lý vụ án theo đúng quy định tại các điều 191 và 195 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo Đơn khởi kiện ngày 26-02-2018, bà Lý V yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Lâm Đ có nơi cư trú tại ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm2015, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện Trần Đề thụ lý, giảiquyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án.

[3] Về xét xử vắng mặt đương sự: Nguyên đơn Lý V có Đơn yêu cầu Tòa án nhân dân xét xử vắng mặt ngày 03-5-2018 nộp trực tiếp cho Tòa án ngày 03- 5-2018 và bị đơn Lâm Đ vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lý V: Về quan hệ hôn nhân, bà Lý V, sinh ngày 19-6-1995 và ông Lâm Đ, sinh năm 1991 tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 01, Quyển số 01/2014 ngày 03-01-2014 nên quan hệ hôn nhân giữa bà V và ông Đ là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng bà V, ông Đ chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian, sau đó phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân với nhau từ tháng 04-2017 đến nay. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tổ chức hòa giải để động viên vợ chồng bà V, ông Đ đoàn tụ với nhau, tuy nhiên phía ông Đ vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Như vậy, tình trạng của vợ chồng bà V, ông Đ đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét việc bà V xin ly hôn là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về con chung, bà Lý Vọng yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lâm Lý K, sinh ngày 28-9-2014 đến khi thành niên. Xét lời trình bày của bà V xác định vợ chồng bà V, ông Đ có một người con chung là Lâm Lý K, sinh ngày 28-9-2014 là phù hợp với Giấy khai sinh số 453, Quyển số 03/2014 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 08-10-2014. Hiện nay, cháu K sống chung với bà V. Xét yêu cầu giải quyết về con chung của bà V là phù hợp với điều kiện thực tế cần ổn định cuộc sống của cháu K, phù hợp với điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên của bà V. Vì vậy, căn cứ vào Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao cháu Lâm Lý K cho bà Lý V trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung, bà V không có yêu cầu cấp dưỡng cho con chung nên Hội đồng xét xử không buộc ông Đ cấp dưỡng cho cháu K.

[6] Về tài sản chung và nợ chung, bà Lý V không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung, nên không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Lý V chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án ly hôn là 300.000 đồng.

[8] Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các đương sự có quyền kháng cáobản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lý V (Tên gọi khác: Lý Thị SV) và ông Lâm Đ được ly hôn. Quan hệ hôn nhân giữa bà Lý V (Tên gọi khác: Lý Thị SV) và ông Lâm Đ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 01, Quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03-01-2014 chấm dứt kể từ ngày Bản án này có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung:

- Giao cho bà Lý V (Tên gọi khác: Lý Thị SV) trực tiếp nuôi dưỡng con chung của bà Lý V và ông Lâm Đ là Lâm Lý K, sinh ngày 28-9-2014 đến khi thành niên (hiện nay, cháu Lâm Lý K sống chung với bà Lý V).

- Ông Lâm Đ không phải cấp dưỡng cho con chung.

- Ông Lâm Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom Lâm Lý K mà không ai được cản trở. Ông Lâm Đ không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục Lâm Lý K của bà Lý V.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lý V (Tên gọi khác: Lý Thị SV) không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lý V (Tên gọi khác: Lý Thị SV) chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009532 ngày 13-3-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Ông Lâm Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án cho các đương sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 11/05/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:22/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về