Bản án 22/2019/HSST ngày 27/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 22/2019/HSST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 02 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2019/ TLST-HS, ngày 25 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Dương Đình N; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1979 tại Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

- Nơi thường trú: Xóm H, xã Th, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Dương Văn Đ, sinh năm 1950; Con bà: Bùi Thị L, sinh năm: 1953; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Vợ: Lê Thị C, sinh năm 1981(Hiện đã ly hôn); Có 02 con; Con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 31/10/2018 bị Công an huyện Phú Bình xử phạt vi phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc xảy ra ngày 12/10/2018. Hiện N chưa chấp hành xong hình phạt; Ngày 30/7/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tại bản án số 32/2010/HSST; Ngày 29/10/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tại bản án số 104/2015/HSST ngày 29/10/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình xử phạt 12 tháng tù giam. Bị cáo N đã chấp hành xong các khoản án phí đối với các bản án nêu trên. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/10/2018 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Dương Thị M; Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không, sinh năm 1992 tại Thái Nguyên.

- Nơi thường trú: Xóm Tr, xã ĐT, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/12; Con ông: Dương Văn G, sinh năm 1959; Con bà: Dương Thị H, sinh năm 1954; Gia đình có 04 anh em, bị can là con thứ tư trong gia đình; Chồng: Nguyễn Văn B, sinh năm 1991; Con: Có 01 con, sinh năm 2011. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 29/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình xử phạt 7 năm tù về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/10/2018 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (Có mặt tại phiên tòa).

- Người làm chứng:

1. Anh Dương Văn A, sinh năm 1969(Vắng mặt). Trú tại: Xóm Nón, xã ĐT, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

2. Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1988 (Có mặt). Trú tại: Xóm TP, xã ĐT, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

3. Anh Hà Mậu Th, sinh năm 1987 (Có mặt). Trú tại: Xóm HB, xã ĐT, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 12/10/2018 tổ công tác Công an huyện Phú Bình kết hợp cùng Công an xã Th đi làm nhiệm vụ thì phát hiện bắt quả tang tại nhà Dương Đình N, sinh năm 1979 trú tại xóm H, xã Th, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên khi

Dương Đình N và Hà Mậu Th sinh năm 1987, trú tại xóm HB, xã Th, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đang có hành vi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền VNĐ dưới hình thức đánh sâm. Trong khi bắt quả tang kiểm tra phát hiện thu giữ tại gấu quần bò bên phải H N đang mặc có 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể dạng đá màu trắng; 01 túi nilon màu trắng bên trong có 02 viên nén màu hồng nghi là chất ma túy.Tổ công tác tiến hành niêm phong ký hiệu A và A1. Ngoài ra tạm giữ của N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC màu đen đều đã qua sử dụng được niêm phong lý hiệu B1. Cơ quan điều tra tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đưa các đối tượng trên cùng vật chứng về Công an huyện Phú Bình để điều tra làm rõ.

Hồi 11 giờ 15 phút cùng ngày cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Bình thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với, đồ vật, nhà ở, khu vực xung quanh nhà ở của Dương Đình N tại xóm H, xã Th, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Kết quả cơ quan điều tra đã phát hiện thu giữ 01 túi xách màu đen treo ở vách tường trên đầu giường phòng ngủ của N xác định là của Dương Thị M, sinh năm 1992, trú tại xóm Tr, xã ĐT, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên là bạn gái của N hiện đang sống cùng với N, kiểm tra bên trong có 8 túi nilon màu trắng bên trong đều chứa tinh thể dạng đá màu trắng; 4 túi nilon màu trắng bên trong mỗi túi chứa 02 viên nén màu hồng; 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa một viên nén màu hồng và một viên màu xanh đều đựng trong vỏ hộp thuốc lá thăng long bằng kim loại được niêm phong ký hiệu C; Phát hiện 28 viên nén màu hồng đựng trong 01 túi noilon màu trắng, 04 túi nilon màu trắng bên trong mỗi túi đều chứa tinh thể dạng đá màu trắng được đựng trong hộp giấy màu đỏ bên ngoài có chữ cỏ may được niêm phong ký hiệu C1; Thu giữ của M 01 điện thoại di động Iphone 5S màu trắng, bị vỡ kính phía trên màn hình được niêm phong ký hiệu là D.

Hồi 16 giờ 30 phút ngày 12/10/2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Bình phối hợp cùng Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên mở niêm phong vật chứng, cân xác định trọng lượng và lấy mẫu gửi giám định đối với số ma túy thu giữ của Dương Đình N. Kết quả 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể dạng đá mầu trắng ký hiệu A có tổng khối lượng là 0,797 gam. Cơ quan điều tra lấy toàn bộ 0,797 gam tinh thể dạng đá màu trắng niêm phong ký hiệu A2 làm mẫu gửi phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên để giám định; 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa 02 viên nén màu hồng ký hiệu A1 có tổng khối lượng là 0,201 gam, lấy toàn bộ 0,201 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu A3.

Hồi 17 giờ ngày 12/10/2018 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Bình phối hợp cùng Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên mở niêm phong vật chứng, cân xác định trọng lượng và lấy mẫu gửi giám định đối với số ma túy thu giữ trong túi xách màu đen của Dương Thị M. Kết quả 08 túi nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể dạng đá mầu trắng có tổng khối lượng 1,161 gam; 04 túi nilon màu trắng bên trong mỗi túi có chứa 02 viên nén màu hồng; 01 túi nil on màu trắng bên trong có chứa 01 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh khối lượng của 9 viên nén màu hồng là 0,920 gam, khối lượng của 01 viên nén màu xanh là 0,098 gam ký hiệu C. Cơ quan điều tra quyết định lấy toàn bộ 1,161 gam tinh thể dạng đá màu trắng được niêm phong ký hiệu M1; 0,920 gam viên nén màu hồng được niêm phong ký hiệu M2 và 0,098 gam viên nén màu xanh được niêm phong ký hiệu M3 làm mẫu gửi giám định. Khi mở niêm phong bì thư ký hiệu C1 bên trong có 28 viên nén màu hồng đựng trong túi nilon màu trắng cân có tổng khối lượng là 2,870 gam được niêm phong ký hiệu M4 ; 04 túi nilon màu trắng bên trong mỗi túi chứa tinh thể dạng đá màu trắng có tổng khối lượng là 2,303 gam được niêm phong ký hiệu M5 lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định.

Ngày 19/10/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên có kết luận số 1127/KL-PC09, kết luận chất tinh thể dạng đá màu trắng trong mẫu A2 gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,797 gam. Viên nén màu hồng trong mẫu A3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,201 gam.

Ngày 19/10/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên đã có kết luận số 1125/KL-PC09, kết luận chất tinh thể dạng đá màu trắng trong mẫu M1 gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,161 gam. Viên nén màu hồng trong mẫu M2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,920 gam. Viên nén màu xanh trong mẫu M3 gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,098 gam. Viên nén màu hồng trong mẫu M4 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 2,870 gam. Tinh thể dạng đá màu trắng trong mẫu M5 gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 2,303 gam.

Như vậy xác định khối lượng chất ma túy loại Methamphetamine mà N cất giấu tại gấu quần có tổng khối lượng là 0,998 gam. Khối lượng chất ma túy loại Methamphetamine phát hiện trong túi xách của M có tổng khối lượng là 7,352 gam. Tổng khối lượng chất ma túy loại Methamphetamine thu giữ của M và N tại nhà N là 8,350 gam.

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 24/10/2018 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Bình đã tiến hành mở niêm phong ký hiệu D kiểm tra chiếc điện thoại di động Iphone 5S màu trắng thu giữ của M và hồi 16 giờ ngày 24/10/2018 tiến hành mở niêm phong ký hiệu B1 kiểm tra chiếc điện thoại Nokia 1280 thu giữ của N. Kết quả trong máy điện thoại của N và M phát hiện có nhiều tin nhắn có nội dung liên quan đến việc tàng trữ trái phép chất ma túy giữa N và M (BL: 164-167).

Tại cơ quan điều tra Dương Thị M khai nhận số ma túy bị lực lượng Công an thu giữ trong gấu quần của N và số ma túy thu giữ trong túi xách của M là của M và N. Cụ thể vào khoảng 00 giờ ngày 12/10/2018 N và M đều là đối tượng nghiện chất ma túy nên cùng góp tiền để đi mua ma túy về sử dụng dần, N điều khiển xe mô tô chở M đi xuống khu vực K, thuộc địa phận huyện Y, Tỉnh G gặp một người đàn ông tên Điệp. Tại đây N đưa cho M số tiền 1. 600.000 đồng để mua ma túy, trong đó M góp 400.000 đồng số tiền còn lại là của N. M đã mua của người đàn ông tên Điệp được 38 viên “ngựa”, trong đó 37 viên màu hồng và 1 viên màu xanh và 01 túi ma túy dạng đá, mua xong M đưa ma túy cho N cầm rồi cả cùng đi về. Khi về đến nhà của Nguyễn Văn D, sinh năm 1988, trú tại xóm TP, xã ĐT, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên thì N và M đón D lên nhà N chơi. Khi về đến nhà N thì có Dương Văn A, sinh năm 1979, trú tại xóm Nón, xã Nhã Lộng, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đang ở nhà N, do N nhờ A lên trông nhà từ tối hôm trước. Khi vào nhà N thì cả N, M, A và D cùng đi vào phòng ngủ của N. Lúc này N lấy số ma túy vừa mua được từ trong túi N đeo trên người ra rồi chia nhỏ số ma túy ra thành nhiều túi nhỏ khác nhau, một phần N để trong vỏ thuốc lá thăng long bằng kim loại, một phần N để trong hộp giấy màu đỏ bên ngoài có ghi chữ “Cỏ may”. Khi đang chia ma túy thì N có điện thoại nên đi ra ngoài, N cất hai hộp ma túy vào trong túi xách của M treo ở đầu giường trong phòng ngủ của N, khi chia ma túy thì N có lấy một ít ma túy từ số ma túy mà N và M vừa mua về để N, A và D cùng sử dụng. Đến khoảng 6 giờ sáng ngày 12/10/2018 thì có Hà Mậu Th, sinh năm 1987 trú tại xóm HB, xã ĐT, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đi cùng với bạn gái là Đặng Thị Huệ Anh (chưa xác định được địa chỉ cụ thể) và Hà Huy Dũng, sinh năm 1991, trú tại xóm Mãn Chiêm, xã Hồng Tiến, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đến nhà N chơi, một lúc sau thì Huệ Anh và Dũng đi về còn Th, D và N cùng nhau ngồi đánh bạc tại nhà N. Đến khoảng 7 giờ cùng ngày thì D hết tiền nên đi về trước còn N và Th vẫn tiếp tục đánh bạc đến 10 giờ cùng ngày thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại cơ quan điều tra Dương Đình N khai nhận số ma túy bị thu giữ trong gấu quần của N là do M đưa cho để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt. N không thừa nhận việc đi mua ma túy cùng với M và không thừa nhận việc cất ma túy vào túi xách của M.

Cơ quan điều tra đã tiến hành ghi lời khai của Nguyễn Văn D, Dương Văn A cả D và A đều khai nhận số ma túy để trong túi xách của M treo trên đầu giường trong phòng ngủ của N và M là do N và M đi mua về, D và A nhìn thấy N là người chia nhỏ số ma túy đó ra thành nhiều túi khác nhau và cất giấu ở đó. Tại cơ quan điều tra xác định mối quan hệ giữa A, D, M và N không có mâu thuẫn, thù hằn gì nhau. Lời khai của A và D phù hợp với lời khai của M cùng các tài liệu chứng cứ khác mà cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì thư niêm phong bên trong có 0,697 gam ma túy mẫu A2; 01 bì thư niêm phong bên trong có 0,099 gam ma túy mẫu A3; 01 bì thư niêm phong bên trong có 1,081 gam ma túy mẫu M1; 01 bì thư niêm phong bên trong có 0,827 gam ma túy mẫu M2; 01 bì thư niêm phong bên trong có 2,714 gam ma túy mẫu M4; 01 bì thư niêm phong bên trong có 2,233 gam ma túy mẫu M5 (đều được hoàn lại sau giám định); 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 5S màu trắng, số Imel 5 số cuối là 47545 máy cũ đã qua sử dụng tạm giữ của M; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen, số Imel 5 số cuối là 23963; 01 điện thoại nhãn hiệu Mastel màu đen, số Imel1- 5 số cuối là 70522; 01 điện thoại nhãn hiệu HTC màu đen, số Imel 5 số cuối là 53926 đều tạm giữ của N; 01 hộp giấy niêm phong ký hiệu T, bên trong có 01 túi xách giả da màu đen loại túi nữ có dây đeo thu giữ của Dương Thị M; 01 hộp vỏ thuốc lá thăng long bằng kim loại; 01 vỏ hộp giấy màu đỏ bên ngoài ghi chữ cỏ may; 01 vỏ chai nhựa loại 1,5 lít phần nắp chai có gắn ống nhựa; 01 bì thư niêm phong ký hiệu C2, bên trong là vỏ giấy nilon phát hiện khi khám xét tại nhà Dương Đình N. Tất cả những vật chứng này đang được lưu giữ và bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Phú Bình chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKSPB ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình đã truy tố bị cáo Dương Đình N, bị cáo Dương Thị M về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình sau khi phân tích, đánh giá chứng cứ, nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận: giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị với Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Dương Đình N, và bị cáo Dương Thị M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt chính:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Dương Đình N từ 5 năm đến 6 năm tù giam; xử phạt bị cáo Dương Thị M từ 5 đến 6 năm tù giam. Áp dụng Điều 55, 56 của BLHS năm 2015 tổng hợp hình phạt của bản án 153/2018/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình đối với M về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, buộc bị cáo Dương Thị M phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 12 năm tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị xử lý các vật chứng đã thu giữ theo Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Kết thúc phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo để sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; của Kiểm sát viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và lời khai đó có căn cứ chấp nhận vì đã đúng như nội dung cáo trạng truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của những người tham gia tố tụng khác.

Như vậy có đủ cơ sở xác định: Hồi 10 giờ ngày 12/10/2018 tại nhà của Dương Đình N, Công an huyện Phú Bình phối hợp cùng Công an xã Th bắt quả tang Dương Đình N và Hà Mậu Th đang có hành vi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền VNĐ dưới hình thức đánh sâm tại nhà của N. Quá trình bắt giữ lực lượng Công an phát hiện và thu giữ tại gấu quần của N có 01 túi nilon bên trong có chứa tinh thể dạng đá màu trắng và 01 túi nilon bên trong chứa 02 viên nén màu hồng có tổng khối lượng là 0,998 gam đều là chất ma túy loại Methamphetamine. Khám xét khẩn cấp nhà N, thu giữ trong túi xách màu đen của Dương Thị M treo trên đầu giường tại phòng ngủ của N có 8 túi nilon bên trong đều chứa tinh thể dạng đá màu trắng; 4 túi nilon bên trong mỗi túi chứa 02 viên nén màu hồng và 01 túi nilon bên trong chứa một viên nén màu hồng và một viên màu xanh đều đựng trong vỏ hộp thuốc lá thăng long bằng kim loại. Phát hiện 28 viên nén màu hồng đựng trong túi noilon màu trắng; 04 túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể dạng đá đều được đựng trong hộp giấy màu đỏ bên ngoài có chữ “Cỏ may” có tổng khối lượng là 7,352 gam đều là chất ma túy loại Methamphetamine. Như vậy tổng số ma túy thu giữ tại nhà N là 8,350 gam.

Số ma túy này do N và M cùng góp chung tiền đi mua về mục đích mua về để sử dụng dần cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện thu giữ cùng nhiều vật chứng khác có liên quan.

Với hành vi trên các bị cáo Dương Đình N, Dương Thị M bị truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Nội dung Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý, mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy.,thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm..

2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm a)…

g) Heroine....Methamphetamin… có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;"

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm hại đến chính sách độc quyền quyền lý của Nhà nước ta về các chất ma tuý, các bị cáo nhận thức rõ về tác động của tội phạm do mình gây ra sẽ ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự của địa phương là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm hình sự khác. Hành vi đó của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự.

Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, thấy: Bị cáo Dương Đình N tuy không có tiền án, tiền sự, nhưng nhân thân của bị cáo rất xấu. Ngày 31/10/2018 bị Công an huyện Phú Bình xử phạt vi phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc xảy ra ngày 12/10/2018; Ngày 30/7/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Tại bản án số 32/2010/HSST ngày 29/10/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Tại bản án số 104/2015/HSST ngày 29/10/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình xử phạt 12 tháng tù giam. Bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà lại lao vào nghiện hút ma túy. Quá trình điều tra bị cáo N không nhận mình đi mua ma túy cùng với M, không nhận số ma túy bị cơ quan điều tra thu giữ trong buồng nhà N là của mình cùng đi mua với bị cáo M. Nhưng tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo N đã nhận tội, thừa nhận số ma túy thu giữ tại nhà N ngày 12/10/2018 là của N và M cùng đi mua về để sử dụng. Đối với bị cáo Dương Thị M có nhân thân xấu, ngày 29/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình xử phạt 7 năm tù về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo cũng không lây đó làm bài học cho mình, tiếp tục mua ma túy cùng N về sử dụng, hai bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi thực hiện tội phạm của mình. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xét nhân thân, tính chất mức độ tội phạm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc một mức án tương ứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

[4].Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy các bị cáo là những người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xử lý vật chứng như sau:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong bên trong có 0,697 gam ma túy mẫu A2; 01 bì thư niêm phong bên trong có 0,099 gam ma túy mẫu A3; 01 bì thư niêm phong bên trong có 1,081 gam ma túy mẫu M1; 01 bì thư niêm phong bên trong có 0,827 gam ma túy mẫu M2; 01 bì thư niêm phong bên trong có 2,714 gam ma túy mẫu M4; 01 bì thư niêm phong bên trong có 2,233 gam ma túy mẫu M5 (đều được hoàn lại sau giám định); 01 hộp giấy niêm phong ký hiệu M bên trong có 01 túi xách giả da màu đen loại túi nữ có dây đeo thu giữ của Dương Thị M; 01 hộp vỏ thuốc lá Thăng Long bằng kim loại; 01 vỏ hộp giấy màu đỏ bên ngoài ghi chữ cỏ may; 01 vỏ chai nhựa loại 1,5 lít phần nắp chai có gắn ống nhựa; 01 bì thư niêm phong ký hiệu C2 bên trong là vỏ giấy nilon phát hiện khi khám xét nhà Dương Văn N.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 5S màu trắng, số Imel 5 số cuối là 47545 máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của M; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen, số Imel 5 số cuối là 23963 của N.

- Kê biên: 01 điện thoại nhãn hiệu Mastel màu đen, số Imel1- 5 số cuối là 70522; 01 điện thoại nhãn hiệu HTC màu đen, số Imel 5 số cuối là 53926 là vật chứng thu giữ của N để đảm bảo cho công tác thi hành án.

[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trong lời luận tội về hình phạt chính, về xử lý vật chứng, hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[7].Về nguồn gốc số ma túy do M và N mua của một người đàn ông tên Điệp không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể ở khu vực K, huyện Y, tỉnh G. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Bình tiếp tục điều khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[8].Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, cần buộc bị cáo phải chịu một khoản án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

[9]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Dương Đình N, Dương Thị M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt chính: Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt: Dương Đình N 5 (Năm) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2018.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 55, 56 của Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt: Dương Thị M 5 (Năm) năm tù giam. Buộc bị cáo Dương Thị M phải chấp hành hình phạt 7(Bẩy) năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 153/2018/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Dương Thị M phải chấp hành hình phạt chung là 12 năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2018, được trừ đi số ngày bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/7/2018 đến 24/7/2018.

3. Về bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Ra quyết định tạm giam các bị cáo Dương Đình N, Dương Thị M với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

4. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

5. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong bên trong có 0,697 gam ma túy mẫu A2; 01 bì thư niêm phong bên trong có 0,099 gam ma túy mẫu A3; 01 bì thư niêm phong bên trong có 1,081 gam ma túy mẫu M1; 01 bì thư niêm phong bên trong có 0,827 gam ma túy mẫu M2; 01 bì thư niêm phong bên trong có 2,714 gam ma túy mẫu M4; 01 bì thư niêm phong bên trong có 2,233 gam ma túy mẫu M5 (đều được hoàn lại sau giám định); 01 hộp giấy niêm phong ký hiệu M bên trong có 01 túi xách giả da màu đen loại túi nữ có dây đeo thu giữ của Dương Thị M; 01 hộp vỏ thuốc lá Thăng Long bằng kim loại; 01 vỏ hộp giấy màu đỏ bên ngoài ghi chữ cỏ may; 01 vỏ chai nhựa loại 1,5 lít phần nắp chai có gắn ống nhựa; 01 bì thư niêm phong ký hiệu C2 bên trong là vỏ giấy nilon phát hiện khi khám xét nhà Dương Đình N.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 5S màu trắng, số Imel 5 số cuối là 47545 máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của M; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen, số Imel 5 số cuối là 23963 của N.

- Kê biên: 01 điện thoại nhãn hiệu Mastel màu đen, số Imel1- 5 số cuối là 70522; 01 điện thoại nhãn hiệu HTC màu đen, số Imel 5 số cuối là 53926 là vật chứng thu giữ của N để đảm bảo cho công tác thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/02/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra của Công an huyện Phú Bình và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Bình).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Dương Đình N, Dương Thị M mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo Dương Đình N, bị cáo Dương Thị M. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HSST ngày 27/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về