Bản án 223/2018/HSST ngày 30/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 223/2018/HSST NGÀY 30/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 225/2018/TLST-HS ngày 15/11/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 843/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trường G, tên gọi khác: không, sinh năm: 1992, nơi cư trú: Ấp Đ, xã V, huyện Ng, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 1/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đồng Y và bà Lư Thị N (cả 2 còn sống); vợ: Trần Thị R, con: 02 người; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Từ nhỏ sống cùng gia đình tại huyện Ngọc Hiển. Ngày 20/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 13 tháng. Đến ngày 20/9/2018 Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Cà Mau ban hành quyết định số 167A/QĐCSCNMT về việc tạm đình chỉ quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính; tạm giữ ngày 20/9/2018, chuyển tạm giam từ ngày 23/9/2018 cho đến nay (Bị cáo có mặt).

- Bị hại: Ông Nghê Phương H – sinh năm 1993 (vắng mặt)

Nơi cư trú: đường G H, khóm B, phường A, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 ngày 26/5/2017, Lê Tuấn A điều khiển xe Môtô 69F1- 9103 đậu tại hẻm Xóm Kiếp thuộc khóm 2, phường 8, thành phố Cà Mau để mua ma túy sử dụng. Tại đây Tuấn A gặp Nguyễn Trường G, G nhờ Tuấn A chở về xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau, trên đường đi Tuấn A rủ G tìm tài sản lấy trộm bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, G đồng ý. Khi đi đến đầu hẽm Miễu Bà thuộc khóm 7, phường 7 thành phố Cà Mau. Tuấn A cho xe dừng lại, kêu G đi bộ vào hẽm tìm tài sản lấy trộm, khi đi đến nhà ông Nghê Phương H thì G phát hiện trong nhà không có khoá cửa, G đi vào bên trong lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Samsung Tab3 màu trắng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumina 525 bỏ vào túi quần rồi đi ra, thì bị ông H phát hiện. G bỏ chạy và lên xe Tuấn A chờ sẳn chạy được khoảng 100m, thì ông H và anh Trần Khái Hg dùng xe môtô đuổi theo vây bắt được và trình báo Công an phường 7, thành phố Cà Mau, lập biên bản. Tang vật thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Tab3 màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumina 525 màu đen; 01 xe mô tô biên số 69F1-9103.

Sau khi lập biên bản quả tang Công an phường 7, thành phố Cà Mau cho Tuấn A và G về. Quá trình điều tra Tuấn A và G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận định giá số 82/KL-HĐĐG ngày 02/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự thành phố Cà Mau xác định: Tính vào thời điểm tháng 05 năm 2017.

- Một điện thoại di động hiệu Samsung Tab 3, màu trắng giá trị 60%. 3.400.000 đồng x 60% = 2.040.000 đồng (Hai triệu, không trăm bốn chục nghìn đồng).

- Một điện thoại di động hiệu Nokia Lumia 525, màu đen giá trị 20%. 3.490.000 đồng x 20% = 698.000 đồng (Sáu trăm chín mươi tám nghìn đồng).

Tổng cộng giá trị hai điện thoại : 2.738.000đ (Hai triệu, bảy trăm, ba mươi tám nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số 220/CT-VKS ngày 15 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Trường G và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo từ 10 tháng đến 01 năm tù.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trường G khai nhận do muốn có tiền tiêu xài cá nhân (mua ma túy sử dụng) nên vào khoảng 09 giờ, ngày 26 tháng 5 năm 2017, Lê Tuấn A dùng xe mô tô biển số 69F1 – 9103 chở Nguyễn Trường G đến đầu hẽm Miễu Bà thuộc khóm 7, phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, G vào hẽm phát hiện nhà ông Nghê Phương H không khóa cửa nên đã có hành vi lén lút lấy trộm tài sản nhà ông Nghê Phương H gồm 01 điện thoại di động hiệu Samsung Tab3 màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumina 525, tổng giá trị tài sản 2.738.000 đồng đúng như cáo trạng truy tố, không oan, sai. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa đối chiếu với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp.

[2] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại một cách bất hợp pháp. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết rõ việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân nên bị cáo đã thực hiện tội phạm hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn Trường G về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999 là có căn cứ.

[3] Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm mất trật tự trị an tại địa phương. Mặc dù bị cáo không phải là người rủ rê lôi kéo việc trộm cắp, nhưng khi được Tuấn A rủ tìm tài sản để trộm cắp bị cáo đồng ý ngay mà không ngăn cản. Trong quá trình cho tại ngoại điều tra bị cáo lại bỏ địa phương đi không trình báo, điều này thể hiện bị cáo còn xem thường pháp luật. Vì vậy nên cần có mức hình phạt thật nghiêm tương xứng với hành vi của bị cáo đã thực hiện để có thời gian giáo dục, sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 30/5/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau đã trao trả lại cho ông Nghê Phương H 01 điện thoại di động hiệu Samsung Tab 3 và một điện thoại di động hiệu Nokia Lumia 525 màu đen. Hiện bị hại đã nhận lại đủ tài sản không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét.

[6] Đối với Lê Tuấn A đã được giải quyết tại bản án số: 231/2015/HS-ST ngày 14/12/2017 nên không đặt ra giải quyết trong vụ án này.

[7] Đối với xe Môtô biển kiểm soát 69F1-9103. Qua điều tra xác định xe Môtô của bà Lê Thị Th (mẹ của Tuấn A). Tuấn A hỏi mượn xe đi công chuyện, sau đó dùng xe đi trộm bà Th không biết. Ngày 21/7/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau đã trả lại xe cho bà Lê Thị Th nên không đặt ra giải quyết.

[8] Về án phí, bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Xét thấy các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên được thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đúng theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường G 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/9/2018.

Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Trường G phải chịu 200.000đ, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau (chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 223/2018/HSST ngày 30/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:223/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về