Bản án 223/2019/HSPT ngày 12/08/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 223/2019/HSPT NGÀY 12/08/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 12 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 156/2019/TLPT-HS ngày 09 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo Hồ Xuân H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2019/HS-ST ngày 25-02-2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 826/2019/QĐXXPT-HS ngày 29 tháng 7 năm 2019.

- Bị cáo có kháng cáo:

Hồ Xuân H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 31/5/1994 tại Đà Nẵng; CMND số: 201657668 cấp ngày 09/10/2014, do CATP Đà Nẵng cấp; Nơi ĐKNKTT và nơi ở: K131/2 đường Th7, phường Th2, quận H4, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc : Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Không; Tiền án, tiền sự: Chưa; Con ông Hồ Văn G (SN 1960) và bà Bùi Thị Ánh Ng (SN 1962); Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ bốn; Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05 tháng 04 năm 2018; Hiện đang bị tạm giam - Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thành Đ - Công ty Luật TNHH 2TV Sông Gianh, Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng bào chữa cho bị cáo Hồ Xuân H theo yêu cầu của Tòa án - Có mặt.

* Bị hại:

- Ông Bảo Th, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1972 - Đăng ký HKTT: K430/2 Đường H3, phường B, quận H4, Tp. Đà Nẵng; Hiện trú tại: số 292 đường Ph, phường H7, quận C1, Tp. Đà Nẵng - Đều có mặt.

- Ông Lê Quốc Th1, sinh năm 1991 - Nơi cư trú: 131/6 đường P2, tổ 54, phường Th3, quận Th4, Tp. Đà Nẵng - Có mặt.

- Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm 1981 - Nơi cư trú: Tổ 8, Thị trấn H5, huyện Th6, tỉnh Quảng Nam. (Ông T ủy quyền cho bà Nguyễn Thị L1 tham gia tố tụng) - Vắng mặt.

- Ông Trần Nhật S, sinh năm 1984 - Nơi cư trú: Tổ 35, phường V1, quận Th4, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.

- Ông Đinh Ngọc H, sinh năm 1971 - Nơi cư trú: số 19 đường Ng1, Tổ 12 phường H6, quận H4, Tp. Đà Nẵng - Có mặt.

- Ông Bùi Viết Thanh Q, sinh năm 1995 - Nơi cư trú: K338/90B đường H3, phường Ph1, quận H4, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.

- Bà Phan Thị H1, sinh năm 1958 - Nơi cư trú: số 08 đường Ng2, phường Th8, quận S2, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Trần Bá V, sinh năm 1975 - Nơi cư trú: Tố 155 phường N1, quận S2, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.

- Ông Phùng Văn T1, sinh năm 1965 - Nơi cư trú: số 35 đường T2, tổ 73 phường Th8, quận H4, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.

- Ông Nguyễn Văn V1, sinh năm 1986 - Nơi cư trú: K572/59 đường O, phường N2, quận H4, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.

- Công ty TNHH MTV thương mại và dịch vụ P - Địa chỉ: Số 33 đường H8, phường Th5, quận Th4, Tp. Đà Nẵng. Người đại diện theo pháp luật của Công ty ông Bùi Khắc M, sinh năm 1991 - Trú tại: số 33 đường H8, phường Th5, quận Th4, Tp. Đà Nẵng - Giám đốc công ty - Vắng mặt.

- Bà Bùi Thị Ánh Ng, sinh năm 1962 và Ông Hồ Văn G, sinh năm 1960 - Cùng cư trú tại: 131/2 đường Th7, phường Th2, quận H4, Tp. Đà Nẵng – Đều có mặt.

- Ông Nguyễn S1, sinh năm 1970 - Nơi cư trú: số 120 đường P1, phường H9, quận L2, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.

- Ông Nguyễn Triệu Hải H2, sinh năm 1974 - Nơi cư trú: số 37/16 đường Tr1, phường H10, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.

- Ông Đinh Q1, sinh năm 1975 - Nơi cư trú: số 327 đường Ph2, phường H7, quận C1, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.

- Bà Bùi Thị Hồng Tr, sinh năm 1974 - Nơi cư trú: K75/16 đường L, phường Ph1, quận H4, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có tiền sử dụng cá nhân, Hồ Xuân H đưa ra thông tin gian dối là làm việc ở Cục phòng chống ma túy của Bộ Công an đóng tại TP Đà Nẵng, có nguồn mua xe ô tô thanh lý giá rẻ, có khả năng xin cho người khác vào làm việc trong ngành Công an để các bị hại tin tưởng đưa tiền mua xe ô tô, chi phí xin việc rồi chiếm đoạt.

Quá trình điều tra xác định từ khoảng tháng 10.2016 đến tháng 9.2017, với thủ đoạn như trên, Hồ Xuân H đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều người, cụ thể như sau :

l. Lừa đảo chiếm đoạt của vợ chồng ông Bảo Th - bà Nguyễn Thị L1 (trú K430/2 Đường H3, Phường B, Quận H4, TP Đà Nẵng) số tiền 1.020.000.000 đồng:

Thông qua vợ chồng ông Hồ Văn G và bà Bùi Thị Ánh Ng (cùng trú tại: K131/2 Thanh Thủy, phường Th2, Quận H4, TP Đà Nẵng - bố mẹ ruột Hồ Xuân H), vợ chồng ông Bảo Th gặp Hồ Xuân H. H tự giới thiệu mình là sĩ quan Công an Cục phòng chống ma tuý của Bộ Công an đóng tại TP Đà Nẵng, có suất mua xe ô tô cơ quan thanh lý và rủ vợ chồng ông Th mua bán lại kiếm lời. Tin lời H, vợ chồng ông Th đã nhiều lần giao tiền cho H để mua ô tô. Cụ thể:

Vụ thứ 1: Vào khoảng tháng 10.2016, H cho vợ chồng ông Th mượn 01 xe ô tô hiệu Toyota Innova, BKS: 43A-170.32 để tập lái. Sau đó, vợ chồng ông Th đặt vấn đề nhờ H mua giúp 01 chiếc xe ô tô loại 7 chỗ để sử dụng. H gợi ý sẽ mua chiếc xe cùng loại và đặc điểm với chiếc ô tô 43A-170.32 trên với giá 200.000.000 đồng và vợ chồng ông Th muốn mua thì phải đặt cọc trước số tiền 90.000.000 đồng để H làm thủ tục mua xe và hẹn đến trước Tết Nguyên đán 2017 sẽ giao xe. Vợ chồng ông Th đồng ý và đặt cọc cho H số tiền 90.000.000 đồng. Khi nhận tiền, H có viết “Giấy vay tiền” với số tiền vay là 90.000.000 đồng giao cho vợ chồng ông Th. Đến gần Tết nguyên đán 2017, H yêu cầu vợ chồng ông Th giao thêm số tiền 80.000.000 đồng để mua xe, đồng thời cho vợ chồng ông Th mượn chiếc Toyota Innova BKS 43A-170.32 để sử dụng trong dịp Tết. Sau tết, H đã lấy lại chiếc xe ô tô trên và không giao xe ô tô cho vợ chồng ông Th nhờ mua như đã cam kết, cũng không trả lại tiền số tiền 170.000.000 đồng cho vợ chồng ông Th.

Qua xác minh, xe ô tô hiệu Toyota BKS 43A-170.32 do anh Nguyễn Văn V1 (trú tại: K572/79 đường O, Quận H4, TP Đà Nẵng) đứng tên chủ sở hữu. Anh V1 khai mua xe tháng 10.2015, sau đó cho Công ty TNHH MTV TM và DV du lịch P thuê lại kinh doanh xe tự lái. Anh V1 không làm thủ tục mua bán chuyển nhượng cho ai. Xác minh tại Công ty P thể hiện H nhiều lần thuê chiếc xe này để sử dụng. Vào ngày 15.01.2017, H thuê từ ngày 15.01.2017 đến 06.02.2017 giá 700.000 đồng/ngày, tổng cộng tiền thuê 20.100.000 đồng, H khai mục đích đưa xe cho vợ chồng ông Th mượn để tạo niềm tin.

Vụ thứ 2: Vào khoảng tháng 11.2016, H nói với ông Th là có quen biết ông Đinh Ngọc H (trú số 19, đường Ng1, TP Đà Nẵng), là người có thể giúp mua được lô xe ô tô cũ giá rẻ, mỗi lô gồm 10 chiếc các loại với giá 2.000.000.000 đồng. H rủ ông Th góp 1.000.000.000 đồng để mua về bán lại kiếm lời và yêu cầu đặt cọc trước 400.000.000 đồng để H lo thủ tục mua bán. Vợ chồng ông Th đồng ý và nhờ ông Nguyễn Tấn T chuyển số tiền này qua tài khoản ngân hàng của H số 040049299690 tại Ngân hàng Sacombank, chứng từ giao dịch đề ngày 21.11.2016 ghi “Nguyễn Tấn T chuyển tiền cọc”. Ngày 16.11.2016, H viết “Giấy vay tiền” giao cho vợ chồng ông Th. Tuy nhiên sau đó, H không mua lô xe ô tô như cam kết, cũng không trả lại tiền cho vợ chồng ông Th. H thừa nhận số tiền 400.000.000 đồng nhận của vợ chồng ông Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân hết.

Ông H khai tháng 12.2016 có mua giúp H 01 chiếc xe ô tô hiệu Ford Escape với giá 210.000.000 đồng. Sau một thời gian sử dụng thì H bán lại cho ông H với giá 185.000.000 đồng, hiện ông H đã bán lại cho người khác. Đến ngày 26.01.2017, ông H bán cho H 01 xe ô tô hiệu Huyndai Accent với giá 440.000.000 đồng, sau đó H bán lại cho người khác. Ông H khai không có sự việc H nhờ ông mua 01 lô xe ô tô cũ 10 chiếc giá 02 tỷ đồng và ông cũng không có lô xe đó.

Vụ thứ 3: Vào khoảng tháng 01.2017, H điện thoại nói cho vợ chồng ông Th biết là hiện H đã mua được 03 chiếc xe ô tô cũ gồm 01 chiếc hiệu Ford Escape, 01 chiếc Huyndai Accent (là 02 xe mua của ông Đinh Ngọc H nêu trên) và 01 xe hiệu Innova với tổng trị giá 700.000.000 đồng và rủ vợ chồng ông Th góp vốn mua và bán kiếm lời. Sau đó, H điều khiển xe Ford Escape đến nhà vợ chồng ông Th, đưa giấy tờ xe cho vợ chồng ông Th xem làm tin. Vợ chồng ông Th đồng ý chung tiền để mua xe ô tô và đưa trước cho H số tiền 350.000.000 đồng. Ngày 23.01.2017, H nhận tiền và viết “Giấy vay tiền” với số tiền vay là 350.000.000 đồng giao cho vợ chồng ông Th. Tuy nhiên, sau đó H bán chiếc xe Ford Escape cho ông Đinh Ngọc H với giá 185.000.000 đồng, chiếc Innova bán cho một người tên Tuấn (không rõ địa chỉ) với giá 310.000.000 đồng, chiếc xe Huyndai Accent bán cho một người không nhớ tên với giá 300.000.000 đồng. Tổng cộng tiền bán 03 xe là 795.000.000 đồng. H sử dụng cá nhân, không giao xe cũng không trả lại tiền cho vợ chồng ông Th.

Vụ thứ 4: Vào khoảng tháng 02.2017, vợ chồng ông Th đến nhà H để mượn xe ô tô đi đám cưới thì thấy trước đầu kiệt nhà H có một chiếc xe ô tô hiệu Fortuner, BKS: 43A-106.64. Vợ chồng ông Th hỏi H chiếc xe đó có bán không. H trả lời chiếc xe này H đang tìm người để bán với giá là 200.000.000 đồng. Vợ chồng ông Th đặt vấn đề muốn mua nên H yêu cầu đặt cọc 100.000.000 đồng. Khi nhận tiền, H viết “Giấy vay tiền” với số tiền vay là 100.000.000 đồng giao cho vợ chồng ông Th và cam kết đến cuối tháng 02.2017 sẽ giao xe này cùng với chiếc xe ô tô hiệu Toyota Innova BKS: 43A- 170.32 (chiếc xe đã đề cập ở vụ 1 nêu trên). Tuy nhiên sau đó, H không giao xe và cũng không trả lại tiền cho vợ chồng ông Th.

Qua xác minh, xe ô tô hiệu Fortuner, BKS: 43A-106.64 là của anh Nguyễn S1 (trú 120 đường P1, quận L2, TP Đà Nẵng). Anh S1 sử dụng xe đi lại và thỉnh thoảng cho Công ty P thuê kinh doanh dịch vụ xe tự lái. Qua làm việc với Công ty P xác định ngày 27.3.2017, Công ty có cho H thuê lại xe từ ngày 27.3.2017 đến 25.4.2017, tổng tiền thuê là 25.000.000 đồng. Hiện anh S1 vẫn là chủ sở hữu chiếc xe và chưa làm thủ tục chuyển nhượng mua bán với ai.

Đến khoảng ngày 28.7.2017, sau nhiều lần vợ chồng ông Bảo Th hối thúc giao xe, H đến gặp vợ chồng ông Th và viết “Giấy vay tiền” với số tiền là 1.450.000.000 đồng với lý do vay để kinh doanh hẹn trong tháng 8.2017 sẽ trả. Tuy nhiên đến nay H mới trả lại được 30.000.000 đồng.

Cơ quan CSĐT - Công an TP Đà Nẵng tiến hành trung cầu giám định chữ viết trên “Giấy vay tiền” mang tên Hồ Xuân H ghi ngày 28.7.2017 (ký hiệu A). Theo kết luận giám định số 705/GĐ-HS ngày 29.12.2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Đà Nẵng kết luận: Chữ viết mang tên Hồ Xuân H trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ viết đứng tên Hồ Xuân H trên các tài liệu mẫu ký hiệu từ M1 đến M3 do cùng một người viết ra.

2. Lừa đảo chiếm đoạt của ông Lê Quốc Th1 (trú 131/6 đường P2, P.Th3, Q.Th4, TP Đà Nẵng) số tiền 400.000.000 đồng:

Vào khoảng tháng 3.2017, H mua 01 chiếc xe ô tô mới, hiệu Mazda 2, với giá 615.000.000 đồng. Khi vợ chồng ông Th - bà L1 đến gặp H để hỏi về các lần trước góp tiền mua xe chưa thấy có kết quả, H chỉ chiếc xe Mazda 2 và nói đây là xe công ty H thanh lý với giá 300.000.000 đồng, nếu muốn mua thì H sẽ bán lại cho. Vợ chồng ông Th - bà L1 đồng ý mua và giao đủ tiền cho H, H hẹn khoảng 1 tháng sau thì có giấy tờ xe. Khoảng một tuần sau, ông Hồ Văn G (ba ruột của H) mang biển số xe 43A-256.48 đến giao cho vợ ông Th để gắn vào xe. Đến tháng 6.2017, sau nhiều lần ông Th yêu cầu giao giấy tờ xe, H giao số kiểm định và giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô đứng tên Hồ Xuân H (bản phô tô) và giải thích là do cơ quan tưởng H mua nên để tên H trong giấy tờ và hứa đi làm giấy tờ sang tên cho vợ chồng ông Th.

Tuy nhiên, ngày 17.6.2017, H dùng giấy đăng ký xe chào bán xe cho anh Lê Quốc Th1 với giá 400.000.000 đồng, làm thủ tục công chứng chuyển nhượng ngày 19.6.2017 tại Văn phòng công chứng TT. Sau khi công chứng, nhận tiền, H làm thủ tục thuê lại xe của anh Th1 từ ngày 17.6.2017 đến ngày 30.8.2017 với giá 600.000 đồng/ ngày. Sau khi hết hạn thuê xe, anh Th1 yêu cầu giao xe, H thừa nhận xe đã bán cho vợ chồng ông Th và dẫn anh Th1 đến gặp ông Th nhưng ông Th không đồng ý giao xe mà liên hệ báo cơ quan Công an và giao nộp chiếc xe này để giải quyết theo pháp luật. H khai do nhận tiền ông Th nhiều lần nhưng không giao xe, H mượn tiền mua chiếc xe này với giá 615.000.000 đồng rồi mang về bán lại cho ông Th giá 300.000.000 đồng để tạo niềm tin và để ông Th không đòi lại khoản tiền cọc trước đây. Số tiền 400.000.000 đồng nhận của anh Th1, H sử dụng tiêu xài cá nhân, trả nợ, đến nay chưa trả lại cho anh Th1.

3. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông Nguyễn Tấn T (trú tại: TT H5, H.Th6, T.Quảng Nam) số tiền 970.000.000 đồng :

Vụ thứ nhất: Khoảng tháng 01.2017, H gặp ông T, giới thiệu có chiếc xe hiệu Mercedes S500 bán thanh lý với giá 750.000.000 đồng, đặt cọc trước 350.000.000 đồng, hẹn đến cuối tháng 2.2017 giao xe. Ông T đồng ý và chuyển vào tài khoản của H số 040049299690 tại Ngân hàng Sacombank chi nhánh Đà Nẵng. Đến thời điểm giao nhận xe, ông T gọi điện hỏi, H nói do Bộ Công an đang thanh tra nên chưa làm thủ tục ra xe được, nếu muốn nhanh thì phải đưa thêm 500.000.000 đồng, trong số này có 100.000.000 đồng đưa cho sếp của H để duyệt thủ tục. Ông T tin tưởng và tiếp tục chuyển vào tài khoản của H 500.000.000 đồng. Sau khi nhận số tiền 850.000.000 đồng của ông T, H sử dụng cá nhân, không giao xe, đến nay chưa trả tiền lại cho ông T.

Vụ thứ hai: Khoảng đầu tháng 5.2017, H nói với ông T cơ quan thanh lý xe ôtô hiệu Toyota Corolla đời 2009 với giá 220.000.000 đồng, đặt cọc trước 120.000.000 đồng. Ngày 12.5.2017, ông T chuyển tiền vào tài khoản của H số 040049299690 tại Ngân hàng Sacombank chi nhánh Đà Nẵng số tiền 120.000.000 đồng, nội dung chuyển tiền ghi là “lấy xe corolla 220”. Trước đó, vào ngày 11.5.2017, H mua chiếc xe hiệu Toyota Corolla Altis BKS 43A-l58.56 của ông Phùng Văn T1 (trú số 35 đường T2, TP Đà Nẵng) với giá 214.000.000 đồng (chưa sang tên). Sau khi ông T chuyển tiền, khoảng 3 ngày sau H lái chiếc Corolla Altis BKS 43A-158.56 đến nhà để giao cho ông T, do thấy xe đời 2001 chứ không phải đời 2009 như đã thoả thuận, ông T không đồng ý nhận. H mang xe bán cho Nguyễn Triệu Hải H2 với giá 200.000.000 đồng và sử dụng hết số tiền này. Số tiền nhận của ông T, H sử dụng cá nhân, đến nay chưa trả lại cho ông T.

Sau nhiều lần ông T hối thúc giao xe nhưng H không thực hiện, đến ngày 24.7.2017, H đến gặp ông T lập “Hợp đồng vay tiền” đề ngày 24.7.2017 nội dung H vay của ông T số tiền 1.000.000.000 đồng, hẹn đến ngày 24.8.2017 trả. Số tiền này gồm tiền nhận để mua xe và 30.000.000 đồng H vay của ông T. H khai do không có xe ô tô để giao cũng không có khả năng trả tiền cho ông T nên làm hợp đồng vay để tạo lòng tin.

4. Lừa đảo chiếm đoạt của anh Trần Nhật S (trú tổ 35, P.V1, Q.Th4, TP Đà Nẵng) số tiền 308.000.000 đồng, của anh Đinh Ngọc H số tiền 30.000.000 đồng, của anh Bùi Viết Thanh Q (trú K338/90B Đường H3, TP Đà Nẵng) số tiền 20.000.000 đồng qua việc bán chiếc xe ô tô hiệu Kia Forte BKS 43A-232.73:

Xe ô tô hiệu Kia Forte BKS 43A-232.73 do anh Trần Bá V (trú tổ 155, P.N1, Q.S2, TP Đà Nẵng) đứng tên chủ sở hữu. Ngày 18.8.2017, H gặp anh Trần Nhật S chào bán chiếc xe này với giá 300.000.000 đồng. Ngày 22.8.2017, H gặp anh V thỏa thuận mua xe của anh V với giá 410.000.000 đồng. Sau khi anh V đồng ý, H lấy số tiền nhận của anh S để đặt cọc cho anh V 200.000.000 đồng, còn lại 100.000.000 đồng H sử dụng cá nhân. Khi anh S yêu cầu làm thủ tục sang tên, H yêu cầu đưa thêm 8.000.000 đồng lệ phí, đồng thời ngày 23.8.2017, H gặp anh V mượn giấy tờ đăng ký xe (H nói là để làm thủ tục vay tiền trả tiền mua xe) và đưa giấy tờ này cho anh S giữ để làm tin. Cũng trong ngày 22.8.2017, H gặp ông Đinh Ngọc H chào bán chiếc xe với giá 300.000.000 đồng, ông H đồng ý mua và đặt cọc 30.000.000 đồng. Đến khoảng cuối tháng 8.2017, H tiếp tục chào bán cho anh Bùi Viết Thanh Q với giá 320.000.000 đồng, yêu cầu anh Q đặt cọc trước 20.000.000 đồng.

Đến cuối tháng 8.2017, khi thấy H không trả tiền mua xe và biết H chào bán cho nhiều người, anh V trả lại cho H 180.000.000 đồng tiền cọc (anh V giữ lại 20.000.000 đồng tiền phạt vi phạm hợp đồng) và lấy xe về.

Đến nay, H trả lại cho anh S được 220.000.000 đồng, trả lại ông H 15.000.000 đồng, chưa trả lại tiền cho anh Q.

5. Lừa đảo chiếm đoạt của ông Đinh Ngọc H (trú tại tổ 12, P.H6, Quận H4, TP Đà Nẵng) số tiền 250.000.000 đồng:

Ngày 09.01.2017, H đến nhà ông H chơi và đưa ra thông tin mình có khả năng xin việc cho con trai ông H là Đinh Quang V3 vào ngành Công an với chi phí 250.000.000 đồng. Anh H tin tưởng giao đủ tiền cho H, H hẹn tháng 3.2017 có kết quả. Quá trình giao nhận tiền không có giấy tờ nhưng ông H ghi âm lại nội dung trao đổi liên quan. Sau nhiều lần H hẹn nhưng vẫn không có quyết định tuyển dụng và cũng không trả lại tiền, ông H gửi đơn tố cáo đến cơ quan Công an và giao nộp nội dung file ghi âm. Số tiền nhận của ông H, H sử dụng cá nhân, đến nay chưa trả lại.

Cơ quan điều tra tiến hành giám định file ghi âm do ông H cung cấp.

Theo Kết luận giám định số 1027/C54(P6) ngày 12.3.2018 của Viện khoa học hình sự - Tổng cục cảnh sát: Tiếng nói của người nam giới xưng là “con” mẫu cần giám định và tiếng nói của Hồ Xuân H trong mẫu so sánh là của cùng một người.

Theo Kết luận giám định số 646/GĐ-HS ngày 04.12.2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Đà Nẵng kết luận về nội dung file “Ghi âm giao tiền 250 triệu.m4a” có thời lượng 06 phút 52 giây trong USB cần giám định ký hiệu A được ghi thành văn bản.

6. Lừa đảo chiếm đoạt của bà Phan Thị H1 (trú số 08 đường Ng2, Q.S2, TP Đà Nẵng) số tiền 250.000.000 đồng:

Tháng 8.2016, H gặp bà H1 giới thiệu mình làm ở Cục phòng chống ma tuý, có khả năng mua xe ô tô hiệu Innova và Fortuner đời 2010 giá khoảng 200.000.000 đồng. Bà H1 tin tưởng nên ngày 30.8.2016, bà làm thủ tục vay số tiền 200.000.000 đồng tại Ngân hàng Eximbank - chi nhánh Đà Nẵng và chuyển thẳng vào tài khoản của H số 10021484922336 tại Ngân hàng Eximbank - chi nhánh Đà Nẵng. Đến khoảng tháng 10.2016, H gặp bà H1 bao đưa thêm 50.000.000 đồng để lấy xe về. Số tiền 250.000.000 đồng nhận của bà H1, H sử dụng cá nhân, không giao xe, đến nay chưa trả lại.

Tổng cộng Hồ Xuân H lừa đảo chiếm đoạt của các bị hại với tổng số tiền là 3.248.000.000 đồng. H đã trả lại cho các bị hại được 235.000.000 đồng, còn 3.013.000.000 đồng chưa trả.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 09/2019/HS-ST ngày 25/02/2019, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Xuân H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1. Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Xử phạt: Hồ Xuân H 12 (Mười hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 05 tháng 04 năm 2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015; buộc bị cáo Hồ Xuân H phải bồi thường cho những người bị hại, cụ thể như sau:

- Bồi thường cho ông Bảo Th và bà Nguyễn Thị L1 số tiền 990.000.000 đồng;

 - Bồi thường cho cho anh Lê Quốc Th1 số tiền 400.000.000 đồng và một số bị hại khác.

Tổng cộng, bị cáo phải bồi thường số tiền là 2.983.000.000 đồng (Hai tỷ, chín trăm tám mươi ba triệu đồng chẵn).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, những người bị hại có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo Hồ Xuân H không thực hiện nghĩa vụ bồi thường thì bị cáo phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Mức lãi suất chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sư năm 2015.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 08-03-2019 bị hại Lê Quốc Th1 có đơn kháng cáo với nội dung:

Yêu cầu huỷ phần dân sự liên quan đến Hợp đồng mua bán xe 43A-256.48, điều tra làm rõ hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của ông Bảo Th và bà Nguyễn Thị L1; tạm giữ tang vật là chiếc xe 43A-256.48 trả cho chủ sở hữu hợp pháp theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm: 

- Bị hại Lê Quốc Th1 giữ nguyên kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: hành vi của bị cáo Hồ Xuân H bị Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng kết án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi bán xe của bị cáo cho anh Lê Quốc Th1 để lấy số tiền 400.000.000 đồng là hành vi lừa đảo đối với anh Th1 và việc bị cáo cùng anh Th1 làm thủ tục công chứng chuyển nhượng ngày 19.6.2017 tại Văn phòng công chứng TT, thành phố Đà Nẵng là thủ đoạn để chiếm đoạt là có căn cứ. Do đó, đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của các bị hại nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Để có tiền tiêu xài và sử dụng cá nhân, Hồ Xuân H đưa ra thông tin bị cáo làm việc ở Cục phòng chống ma túy Bộ công an, có nguồn mua xe ô tô thanh lý giá rẻ và có khả năng xin việc làm để các bị hại tin tưởng nhằm chiếm đoạt tiền của người bị hại. Với thủ đoạn nêu trên, từ tháng 10/2016 đến tháng 8/2017 bị cáo Hồ Xuân H chiếm đoạt của 08 người bị hại với tổng số tiền là 3.248.000.000 đồng; trong đó chiếm đoạt của bị hại Lê Quốc Th1 số tiền 400.000.000 đồng.

Hành vi trên của bị cáo Hồ Xuân H bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Về kháng cáo của bị hại Lê Quốc Th1:

[2.1] Theo lời khai của Hồ Xuân H thì mục đích H mua xe ô tô mới, hiệu Mazda 2, với giá 615.000.000 đồng để bán rẻ lại cho vợ chồng ông Bảo Th và bà Nguyễn Thị L1 với giá 300.000.000 đồng là nhằm mục đích làm cho vợ chồng ông Th tin tưởng để trì hoãn việc đòi xe và đòi tiền mà vợ chồng ông Th giao trước đây. Lời khai của bị cáo H phù hợp với lời khai của ông Bảo Th và bà Nguyễn Thị L1 về việc khi vợ chồng ông Th - bà L1 đến gặp H để hỏi kết quả các lần đã góp tiền mua xe, H đã chỉ chiếc xe Mazda 2 nói đây là xe công ty H thanh lý với giá 300.000.000 đồng, nếu muốn mua thì H sẽ bán lại. Vợ chồng ông Th - bà L1 đã mua và giao đủ tiền cho H; phù hợp với các giấy tờ tài liệu mua xe hiệu Mazda 2 của H và phù hợp với lời khai của ông Hồ Văn G về thời gian ông G mang biển số xe 43A-256.48 đến giao cho vợ ông Th để gắn vào xe. Mặt khác, theo lời khai của bị hại Lê Quốc Th1 thì việc làm thủ tục bán chiếc xe ô tô Mazda 2 là để nhằm mục đích đảm bảo cho số tiền H vay của anh Th1: “Khi mua bán xe thì H không giao xe cho tôi”; “Do tôi không có nhu cầu mua xe để sử dụng nhưng H đến đặt vấn đề mượn tôi số tiền lớn. Do muốn đảm bảo cho số tiền của tôi nên tôi đã yêu cầu H bán chiếc xe trên cho tôi...”. Lời khai của anh Th1 phù hợp với lời khai của Hồ Xuân H: “Thực chất mua bán xe này là tôi mượn của anh Th1 số tiền 400 triệu đồng; anh Th1 yêu cầu tôi viết giấy mua bán xe và ra công chứng, khi nào tôi trả đủ lại số tiền trên thì anh Th1 sẽ hủy hợp đồng công chứng” và “chiếc xe này vợ chồng ông Th và bà L1 đang quản lý nên chỉ làm thủ tục trên giấy tờ”.

Do đó, có căn cứ để xác định chiếc xe Mazda 2 đang tranh chấp là chiếc xe do bị cáo H mua mới, với giá 615.000.000 đồng và bán lại cho vợ chồng ông Th với giá 300.000.000 đồng nhằm để tạo niềm tin đối với vợ chồng ông Th đối với số tiền H nhận mua xe trước đó và thực tế bị cáo đã giao xe cho vợ chồng ông Th quản lý, sử dụng. Hành vi không giao giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô bản chính mà chỉ giao cho vợ chồng ông Th bản phô tô đứng tên Hồ Xuân H cho vợ chồng ông Th là để H có bản chính để lừa bán cho người khác nhằm chiếm đoạt tiền và thực tế bị cáo H đã dùng bản chính đăng ký xe này để lừa bán cho anh Lê Quốc Th1, đã thể hiện ý thức chủ quan của bị cáo Hồ Xuân H là lừa anh Th1 để chiếm đoạt nên Tòa án cấp sơ thẩm không quy kết bị cáo H chiếm đoạt số tiền 300.000.000 đồng của vợ chồng ông Th mà quy kết bị cáo H chiếm đoạt số tiền 400.000.000 đồng của anh Th1 và việc làm thủ tục công chứng chuyển nhượng ngày 19.6.2017 tại Văn phòng công chứng TT là thủ đoạn để chiếm đoạt như cấp sơ thẩm nhận định là phù hợp và có cơ sở.

[2.2] Như đã nhận định, vợ chồng ông Th là người mua xe và đã trả tiền mua chiếc xe Mazda 2 đang tranh chấp cho bị cáo; bị cáo H giao xe này cho vợ chồng ông Th theo hợp đồng nên vợ chồng ông Th không chiếm giữ xe trái phép như kháng cáo đã nêu.

[2.3] Từ các căn cứ nêu trên, HĐXX cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của của bị hại Lê Quốc Th1.

[3] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xét.

[4] Do không chấp nhận kháng cáo nên anh Th1 phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo bị hại Lê Quốc Th1 và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

1. Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Xử phạt: Hồ Xuân H 12 (Mười hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 05 tháng 04 năm 2018).

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015; buộc bị cáo Hồ Xuân H phải bồi thường cho anh Lê Quốc Th1 số tiền 400.000.000 đồng.

3. Các phần quyết định còn lại của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự của các bị hại khác, về lãi chậm thi hành án, về các biện pháp tư pháp và về án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị hại Lê Quốc Th1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 223/2019/HSPT ngày 12/08/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:223/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về