Bản án 224/2019/HNGĐ-ST ngày 12/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 224/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 378/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 262/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 149/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30/8/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Võ Thúy M, sinh năm 1988. (xin vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp A, xã N, huyện Đ, tỉnh Long An.

Bị đơn: Lâm Minh Đ, sinh năm 1987. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã N, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 10 tháng 4 năm 2019 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Võ Thúy Mai trình bày: Chị và anh Lâm Minh Đ cưới nhau năm 2012, không có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống được năm năm, đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẩn; nguyên nhân mâu thuẩn là do anh Đ thường xuyên bài bạc. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay, tình cảm vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên Chị yêu cầu ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Chị và anh Đ có con chung tên Lâm Võ Phương Nghi, sinh ngày 21/11/2013, hiện con đang sinh sống với Chị. Khi ly hôn, Chị yêu cầu tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, chị M có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng anh Đ vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Chị Võ Thúy M khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Lâm Minh Đ; anh Đ có hộ khẩu thường trú tại Ấp T, xã A, huyện Đ, tỉnh Long An (Công an xã xác nhận) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Đ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh Đ chung sống với nhau vào năm 2012 nhưng đến nay không có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của chị M và anh Đ không được xem là hôn nhân hợp pháp, đã vi phạm vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, chị M, anh Đ phát sinh mâu thuẫn nên sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Chị M cho rằng năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẩn; nguyên nhân mâu thuẩn là do anh Đ thường xuyên bài bạc. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay, tình cảm vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên Chị yêu cầu ly hôn với anh Đ.

Đi với anh Đ, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của chị M nhưng anh Đ không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của chị M. Tại phiên tòa hôm nay, anh Đ vẫn vắng mặt, chứng tỏ anh Đ không có thiện chí để hàn gắn. Do chị M và anh Đ chung sống với nhau từ năm 2012 nhưng không có đăng ký kết hôn nên Hội đồng xét xử không công nhận chị M và anh Đ là vợ chồng.

[4]. Về con chung: Chị M và anh Đ có con chung tên Lâm Võ Phương Ngh, sinh ngày 21/11/2013, hiện con đang sinh sống với chị M. Khi ly hôn, Chị yêu cầu tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng.

Đi với anh Đ, dù đã được thông báo về yêu cầu của chị M đối với con chung nhưng anh Đ không đến Tòa án cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án. Xét thấy, để đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu Ngh thấy rằng cần tiếp tục giao con chung cho chị M nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Anh Đ không cấp dưỡng nuôi con vì chị M không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Chị M nêu không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh Đ không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Chị M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9, Điều 14, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thúy M đối với anh Lâm Minh Đ về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Võ Thúy M và anh Lâm Minh Đ là vợ chồng.

2. Về con chung: Chị M được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Lâm Võ Phương Ngh, sinh ngày 21/11/2013, hiện con đang sinh sống với chị M. Anh Đ không cấp dưỡng nuôi con vì chị M không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Chị M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0004483 ngày 16/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành. Chị M đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 224/2019/HNGĐ-ST ngày 12/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:224/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về