Bản án 23/2018/HNGĐ-ST ngày 16/03/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 25/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/03/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 16 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 128/2017/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2017 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông A, sinh năm 1976 (vắng mặt) Địa chỉ: thành phố Tân Bắc, Lãnh thổ Đài Loan

2.Bị đơn : B, sinh năm 1997 (vắng mặt) Địa chỉ: khu vực C, phường D, quận E, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn ông A trình bày yêu cầu khởi kiện như sau:

Ông và bà B quen biết nhau và tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân quận E, thành phố Cần Thơ, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 34 ngày 14/3/2017.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng một tháng thì phát sinh mâu thuẫn và ông đã về Đài Loan sống, không trở lại Việt Nam nữa.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, công việc và nơi cư trú nên không thể hàn gắn được. Ông bà đã sống ly thân từ đó đến nay và không còn liên lạc với nhau. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, nên ông bà có lập bản thỏa thuận ly hôn tại Văn phòng Kinh tế Văn hóa Đài Bắc tại thành phố Hồ Chí Minh (có hợp pháp hóa lãnh sự). Vì vậy nay ông xin được ly hôn với bà B. Về con chung, tài sản chung và nợ chung ông xác định không có, không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời ông A cũng có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt ông và cam đoan không có khiếu nại về sau.

* Bị đơn bà B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn và không có con cái, tài sản và nợ chung phù hợp với phần trình bày của ông A. Bà B cũng xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, nên đồng ý ly hôn. Đồng thời do điều kiện, hoàn cảnh bà phải làm việc ở xa, nên yêu cầu được vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết, cam đoan không có khiếu nại về sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Các bên đương sự đã tự khai và đồng ý ly hôn, cùng xác định không có tài sản,  con cái và nợ, vì vậy Tòa án không có thu thập chứng cứ; đồng thời cả hai bên đều có yêu cầu được giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 21; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự và không có đại diện Viện kiểm sát nhân dân tham gia.

[2] Ông A và bà B xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn. Do đó hôn nhân của ông bà được xác định là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ và điều chỉnh. Do ông A là người mang quốc tịch và hiện đang định cư tại Đài Loan nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 123 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Theo ông A, mặc dù ông bà xây dựng hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Nhưng sau khi cưới, thời gian vợ chồng chung sống với nhau chỉ khoảng từ 01 - 02 tháng thì đã phát sinh mâu thuẫn, ông thì về Đài Loan và đến nay không quay trở lại, cũng không còn liên lạc gì với bà B. Điều này cho thấy hệ quả của một cuộc hôn nhân vội vàng và cơ bản là không xuất phát trên cơ sở tình yêu thương chân chính, không nhằm mục đích xây dựng hôn nhân thực thụ để thực hiện trọn vẹn đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng nhằm vun bồi, bảo tồn hạnh phúc. Thế nên động lực để duy trì tình cảm vợ chồng không có, hạnh phúc không đạt được, dẫn đến hôn nhân đỗ vỡ là điều tất yếu.

Xét ông bà đã sống ly thân, không có cơ hội hàn gắn và thực sự cả hai cũng không mong muốn duy trì cuộc hôn nhân không kết quả này. Cả hai bên cũng đã thể hiện ý chí nguyện vọng bằng văn bản thỏa thuận ly hôn. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông A là phù hợp.

[4] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Hai bên thống nhất trình bày không có, không đặt ra yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp hôn nhân và gia đình không có giá ngạch: Nguyên đơn ông A phải chịu 300.000 đồng theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 123; khoản 1 Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Các Điều 28, Điều 37, Điều 228; khoản 1 Điều 273; khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông A.

- Về hôn nhân: Cho ông A được ly hôn với bà B.

- Về con chung, tài sản chung và nợ chung: ông A và bà B xác định không có, nên không điều chỉnh.

- Về án phí hôn nhân sơ thẩm: ông A phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số AA/2013/000439 ngày 09/11/2017 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ. Ông A đã nộp xong án phí.

Ông A có quyền kháng cáo trong hạn 01 tháng; Bà B có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2018/HNGĐ-ST ngày 16/03/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:23/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về