Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 23/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 28 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 74/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2019 về việc "Xin ly hôn" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1983, cư trú: t5, ấp V, xã A, huyện T, tỉnh A, có mặt;

- Bị đơn: Ông Đỗ Trí Th, sinh năm 1982, cư trú: t5, ấp V, xã A, huyện T, tỉnh A, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ghi ngày 21 tháng 02 năm 2019 và lời trình bày của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim N trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay như sau:

 Về hôn nhân: Bà và ông Đỗ Trí Th chung sống với nhau năm 2004 không có tổ chức lễ cưới, đến ngày 20 tháng 4 năm 2009 có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 52/TP/HT, Quyển số: 01/2009 của Ủy ban nhân dân xã A, huyện T. Cuộc sống hàng ngày bà làm thợ chụp hình, còn ông Th chạy xe honda đầu (chở khách) ở Núi Cấm, xã A, huyện T. Từ năm 2013 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, do ông Th không chăm lo cho gia đình, thiếu trách nhiệm với vợ con, thường xuyên chửi và đánh bà N, kể từ khi bà gửi đơn ly hôn thì vợ chồng đã sống ly thân, hiện nay bà đi làm công nhân ở Bình Dương. Nên bà Nguyễn Thị Kim N yêu cầu được ly hôn với ông Đỗ Trí Th.

Về con chung: Có 02 con chung tên Đỗ Trí T1, sinh ngày 17 tháng 6 năm 2005 và Đỗ Thị Kim P, sinh ngày 10 tháng 7 năm 2006. Theo nguyện vọng của con muốn sống với cha hoặc mẹ cũng được, nếu sống với bà thì bà N không yêu cầu ông Th cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có.

- Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Đỗ Trí Th đều vắng mặt, không có ý kiến trình bày.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tịnh Biên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Kim N và ông Đỗ Trí Th có đăng ký kết hôn, nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy từ năm 2013 giữa bà N và ông Th đã xảy ra mâu thuẫn, thường hay cãi vã và hiện nay ly thân không còn chung sống với nhau, cả hai vẫn không tại điều kiện hàn gắn được. Như vậy, thấy rằng hôn nhân giữa bà N đã rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài.

Về con chung: Có 02 con chung tên Đỗ Trí T1, sinh ngày 17 tháng 6 năm 2005 và Đỗ Thị Kim P, sinh ngày 10 tháng 7 năm 2006. Cháu Đỗ Trí T1 có nguyện vọng được sống với mẹ Nguyễn Thị Kim N và cháu Đỗ Thị Kim P có nguyện vọng được sống với cha Đỗ Trí Th. Do đó, theo nguyện vọng của các cháu, cần giao con chung Đỗ Trí T1 cho bà Nguyễn Thị Kim N và giao cho chung Đỗ Thị Kim P cho ông Đỗ Trí Th trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng theo quy định pháp luật .

Tại phiên tòa hôm nay, bà Nguyễn Thị Kim N vẫn giữ nguyên yêu cầu; ông Đỗ Trí Th vắng mặt;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Bị đơn ông Đỗ Trí Th đã được Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên triệu tập hợp lệ có mặt tại phiên tòa lần thứ hai, nhưng vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Đỗ Trí Th có đăng ký hộ khẩu và thường trú tại ấp V, xã A, huyện T, tỉnh A. Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về hôn nhân: Bà N và ông Th chung sống với nhau từ năm 2004, nhưng đến ngày 20 tháng 4 năm 2009 mới đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 52/TP/HT, Quyển số: 01/2009 của Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh An Giang. Tuy nhiên, thì bà N và ông Th vẫn đăng ký kết hôn theo đúng quy định tại Điều 9, Điều 11 Luật hôn nhân gia đình năm 2000, nên đây là hôn nhân hợp pháp theo pháp luật. Xét thấy giữa bà N và ông Th từ năm 2013 đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, trong suốt thời gian dài đến nay cả hai vẫn không tạo điều kiện hàn gắn được, dẫn đến hiện nay đã sống ly thân với nhau, theo kết quả xác minh ngày 21 tháng 5 năm 2019 tại ấp V, xã A xác định “...không biết có xảy ra mâu thuẫn gì mà hiện nay chỉ thấy ông Th ở nhà một mình, bà N thì đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh”. Như vậy, thấy rằng giữa bà N và ông Th đã không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thấy rằng hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt, nên Hội đồng xét xử thấy rằng bà Nguyễn Thị Kim N xin ly hôn là có căn cứ.

Về con chung: Có 02 con chung tên Đỗ Trí T1, sinh ngày 17 tháng 6 năm 2005 và Đỗ Thị Kim P, sinh ngày 10 tháng 7 năm 2006. Bà N không yêu cầu nuôi con chung, nhưng bà thống nhất theo nguyện vọng của con. Đến nay cháu Đỗ Trí T1 đã đủ 14 tuổi, có nguyện vọng được sống với mẹ Nguyễn Thị Kim N và cháu Đỗ Thị Kim P đã trên 12 tuổi có nguyện vọng được sống với cha Đỗ Trí Th. Do đó, theo nguyện vọng của các cháu, cần giao con chung Đỗ Trí T1 cho bà Nguyễn Thị Kim N và giao cho chung Đỗ Thị Kim P cho ông Đỗ Trí Th trực tiếp nuôi dưỡng và phù hợp pháp luật theo quy định khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Về cấp dưỡng bà N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết, đối với ông Th do vắng mặt không có ý kiến, ông được quyền yêu cầu phí cấp dưỡng nuôi con chung đến khi con đủ 18 tuổi và tự lao động được bằng vụ án khác.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. 

Về nợ chung: Không có.

Do đó, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị là có cơ sở.

[3] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim N khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự hôn nhân sơ thẩm theo mức không giá ngạch. Ông Đỗ Trí Th không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 51, khoản 1 Điều 56 và Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim N.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa Bà Nguyễn Thị Kim N và Ông Đỗ Trí Th.

2. Về con chung: Có 02 con chung tên Đỗ Trí T1, sinh ngày 17 tháng 6 năm 2005 và Đỗ Thị Kim P, sinh ngày 10 tháng 7 năm 2006.

2.1. Giao con chung Đỗ Trí T1, sinh ngày 17 tháng 6 năm 2005 cho bà Nguyễn Thị Kim N trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Giao con chung Đỗ Thị Kim P, sinh ngày 10 tháng 7 năm 2006 cho ông Đỗ Trí Th trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Bà Nguyễn Thị Kim N và ông Đỗ Trí Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Nguyễn Thị Kim N và ông Đỗ Trí Th cùng các thành viên gia đình không được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân tổ chức có thẩm quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: TU/2016/0014618 ngày 12 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tịnh Biên. Bà Nguyễn Thị Kim N đã nộp xong.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Giấy chứng nhận kết hôn số 52/TP/HT, Quyển số: 01/2009, ngày 20 tháng 4 năm 2009 của Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo qui định tại Điều 30 luật thi hành dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:23/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về