Bản án 23/2019/HS-PT ngày 21/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 23/2019/HS-PT NGÀY 21/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 623/2018/TLPT-HS ngày 31 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo Bùi Sĩ C do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 322/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 04/2018/QĐXXPT-HS ngày 03 tháng 01 năm 2019.

- Bị cáo kháng cáo:

Bùi Sĩ C; giới tính: nam; sinh ngày 12/01/1966 tại Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh); nơi đăng ký thường trú: 371/6 đường A1, Phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú trước khi bị bắt: Phòng 102, khách sạn Ngọc Hân, số 740/14 đường A2, Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: (không); con ông Bùi Văn T1 và bà Nguyễn Thị Dư L; hoàn cảnh gia đình:

Sống chung như vợ chồng với bà Hoàng Thị Kim S, có 1 con chung sinh năm 2001;

Sống chung như vợ chồng với bà Đinh Mỹ T2, có 1 con chung sinh năm 2003;

Tiền án: Ngày 22/6/2006, Bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 2 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 9 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 11 năm tù; phạt bổ sung 50.000.000đ (bản án hình sự sơ thẩm số 797/2006/HSST). Bị cáo kháng cáo, ngày 23/10/2006, Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại (bản án hình sự phúc thẩm số 1668/2006/HSPT), không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm; ngày 30/08/2011, bị cáo được đặc xá (bl.73); Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh cho biết không nhận được các bản án đã nêu nên chưa tổ chức thi hành (bl.71).

Bắt, tạm giam: 09/01/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hồ Hoài N, Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 10 phút ngày 09/01/2018, ở tại khu vực ngã ba giao nhau giữa đường X1 với đường X2, thuộc địa phận phường K, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 7 bắt quả tang Bùi Sĩ C cất giữ ma túy ở trong túi áo khoác phía trước bên phải). Lực lượng công an đưa C đến trụ sở Công an phường Tân Kiểng, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, bắt giữ C và thu giữ của C (bl.23, 24):

- 6 gói nylon, bên trong có chứa tinh thể không màu;

- 1 gói nylon, bên trong có chứa chất bột màu hồng;

- 1 gói nylon, bên trong có chứa 6 viên nén màu hồng

- 1 điện thoại di động màu đen hiệu Masstel có số thuê bao là 0922851473 và 01203374218;

- 1 điện thoại di động màu trắng hiệu Cool pad có số thuê bao là 0168228427.

Theo kết luận giám định số 289/KLGĐ-H ngày 11/7/2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (bl.39) kết luận như sau:

- Tinh thể không màu chứa trong 6 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 45,6582g, loại Methamphetamine;

- Chất bột màu hồng chứa trong 1 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3080g, loại Methamphetamine;

- 6 viên nén màu hồng chứa trong gói nylon có khối lượng 2,1949g, kết quả giám định không tìm thấy ma tuý.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, C khai nhận như sau:

Vào khoảng giữa năm 2017, C gặp I (không rõ lai lịch) là bạn cũ khi cùng đi tù chung tại trại giam Bố Lá vào năm 2006. I có nói cho C biết rằng I đang bán ma túy đá, nếu cần mua thì C liên hệ với I. Cách thời điểm C bị bắt khoảng 3 ngày, C đến khu vực chợ Trần Văn Quang, quận E tìm gặp I và mua của I 6 gói ma túy đá với khối lượng khoảng 40g với mục đích bán lại cho người khác để kiếm lời. Trước thời điểm bị bắt khoảng 10 ngày, Hải (bạn của C nhưng C không rõ lai lịch) cho C 1 gói nylon chứa chất bột màu hồng (bột thuốc lắc) và 6 viên nén màu hồng (thuốc lắc) để C sử dụng và nếu có ai mua thì bán lại. Vào khoảng 20 giờ ngày 09/01/2018, có một người tên B (không rõ lai lịch) gọi điện thoại cho C vào số điện thoại 01203374218, hỏi mua 1 bịch ma túy với giá 500.000đ, C đồng ý. Khi C mang ma túy đến khu vực ngã ba giao nhau giữa đường X1 với đường X2, thuộc địa phận phường K, Quận 7 để bán cho B thì bị lực lượng công an bắt quả tang như đã nêu.

Theo bản cáo trạng số 282/CT-VKS-P1 ngày 04/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì bị cáo bị truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 322/2018/HS-ST ngày 19/9/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Sĩ C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”,

Xử phạt Bùi Sĩ C 15 (mười lăm) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 09/01/2018.

Phạt bổ sung: 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 03/10/2018, bị cáo Bùi Sĩ C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bùi Sĩ C khai nhận hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm nêu. Bị cáo kháng cáo cho rằng án sơ thẩm xử quá nghiêm khắc, xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, nhân chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng:

[1] Vào lúc 21 giờ 10 phút ngày 09/01/2018, ở tại khu vực ngã giao lộ đường X1 với đường X2, thuộc địa phận phường K, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Bùi Sĩ C bị bắt quả tang đang cất giữ ma túy trong túi áo để bán. Qua giám định kết luận là 45,9662g ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, đủ cơ sở xác định bị cáo bán ma túy nên bị xét xử tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2] Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm cho rằng: gia đình bị cáo có cung cấp biên lai nộp tiền để thi hành bản án năm 2006 bị cáo bị xử phạt bổ sung 50 triệu đồng. Như vậy, bị cáo đã chấp hành xong, đã xóa án tích, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng "tái phạm nguy hiểm" đối với bị cáo. Đây là tình tiết mới để giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xử bị cáo với mức án dưới khung hình phạt quy định.

[3] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tranh luận cho rằng: Bị cáo được xóa án tích là tình tiết mới nhưng không phải là tình tiết giảm nhẹ theo luật. Các tình tiết giảm nhẹ mà luật sư nêu đã được xem xét trong án sơ thẩm.

[4] Hội đồng xét xử thấy rằng tranh luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là có cơ sở.

[4.1] Ma túy là chất độc hại đối với người nghiện. Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi trái phép liên quan đến ma túy. Thế nhưng vì mục đích lợi nhuận bị cáo cố tình phạm tội.

[4.2] Bị cáo có một lần bị xét xử về tội Mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, sau khi mãn hạn tù, bị cáo vẫn tiếp tục hoạt động liên quan đến ma túy. Khung hình phạt quy định từ 15 năm đến 20 năm tù, Hội đồng xét xử sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 15 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đã xem xét tất cả các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo khai báo thành khẩn ăn năn hối cải, trong quá trình điều tra đã tích cực giúp cơ quan điều tra phát hiện, điều tra một vụ án ma túy khác. Mức án trên là thỏa đáng, không nặng.

[4.3] Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết nào để áp dụng giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo theo yêu cầu kháng cáo. Do vậy, cần bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa là phù hợp.

[5] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Bùi Sĩ C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo qui định pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Sĩ C về việc xin giảm nhẹ hình phạt; Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều điểm b khoản 3 và khoản 5 Điều 251, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s và t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Sĩ C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”,

Xử phạt Bùi Sĩ C 15 (mười lăm) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 09/01/2018.

Phạt bổ sung: 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Tiếp tục tạm giam bị cáo Bùi Sĩ C để đảm bảo cho việc thi hành án. Bị cáo Bùi Sĩ C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-PT ngày 21/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về