Bản án 23/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 4 năm 2019 tại Phòng xử A, trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2019/HSST-QĐ ngày 15 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phồng Cỏn S; sinh năm 1981; tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: xx

Đường 3/2, Phường x, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phồng P và bà Mồng Lý M; vợ là Huỳnh Nguyệt P (là bị cáo trong vụ án; không đăng ký kết hôn); bị cáo có 01 người con sinh năm 2018; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 16/11/2012 bị Ủy ban nhân dân Quận 11 áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn là 24 tháng theo Quyết định số 1085/QĐ-UBND; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8/2018; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Huỳnh Nguyệt P; sinh năm 1987; tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Hộ khẩu thường trú: xx Tạ Uyên, Phường x, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở: xx

Đường 3/2, Phường x, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha là ông Huỳnh Thiếu T (đã chết); mẹ là bà Lưu Viên V (đã chết); chồng là Phồng

Cỏn S (là bị cáo trong vụ án; không đăng ký kết hôn); bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2018; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/3/2019; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Đoàn Trung H, sinh năm 1990; tại Đồng Tháp; nơi cư trú: Hộ khẩu thường trú: Khóm x, phường xx, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Tạm trú: xx Nguyễn Chí Thanh, Phường x, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn S và bà Trần Thị Hồng H; vợ là Dương Hóa K; bị cáo có 02 người con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2015; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/8/2018; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Hồ Vĩ L (tên gọi khác: Bánh), sinh năm 1976; tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: xx Nguyễn Chí Thanh, Phường x, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La H (đã chết) và bà Hồ Ái T (đã chết); vợ là Nguyễn Huỳnh Thúy O (đã ly hôn); bị cáo có 01 người con sinh năm 2001; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 12/01/1996 bị Công an Quận 11 bắt về hành vi xúi giục  người  vị  thành  niên  phạm  tội,  đến  ngày  18/01/1996  được  trả  tự  do.  Ngày 29/12/2014 bị Tòa án nhân dân Quận 5 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn là 24 tháng theo Quyết định số 07/2014/QĐ-TA; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/8/2018; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Huỳnh Thị Kim H, sinh năm 1995; địa chỉ: xx Huỳnh Văn Chính, phường xx, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lê Hoàng Th, sinh năm 2001; địa chỉ: x Trần Đại Nghĩa, phường xxx, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Trung Hu, sinh năm 1994; địa chỉ: x Trần Đại Nghĩa, phường xxx, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Phồng K; địa chỉ: xx Đường 3/2, Phường x, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (hiện đang bị tạm giam trong một vụ án khác); vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 50 phút ngày 08/8/2018, Tổ tuần tra của Đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an Quận 11 phát hiện đối tượng Đoàn Trung H đang đứng trước số nhà 269/17 Nguyễn Thị Nhỏ, Phường 16, Quận 11 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, Công an Quận 11 phát hiện trong túi quần phía trước bên trái của đối tượng H có 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu. Đối tượng H khai nhận chất trên là ma túy do đối tượng mua về sử dụng. Tổ tuần tra đã đưa đối tượng H về trụ sở Công an Phường 16, Quận 11 lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 1374/KLGĐ-H ngày 16/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Tinh thể không màu có trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Đoàn Trung H và hình dấu của Công an Phường 16, Quận 11 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1880g (BL 25).

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận 11, bị can Đoàn Trung H khai nhận: Vào ngày 08/8/2018, bị can H gọi điện thoại cho đối tượng Phồng Cỏn S hỏi mua ma túy với giá 100.000 đồng để sử dụng. Đối tượng S hẹn bị can H đến điểm trò chơi game bắn cá tại số 1162/73 Đường 3/2, Phường 12, Quận 11 để giao ma túy. Sau khi mua ma túy, bị can H đi về đến trước số nhà 269/17 Nguyễn Thị Nhỏ, Phường 16, Quận 11 thì bị Công an kiểm tra phát hiện và bắt quả tang. Bị can H khai trước đó khoảng hai tuần, bị can H gọi điện thoại cho đối tượng S (qua số điện thoại 0902645328) để hỏi mua ma túy với giá 100.000 đồng thì vợ của đối tượng S tên là Huỳnh Nguyệt P nghe máy và trực tiếp hẹn bị can H đến đầu hẻm đường Tôn Thất Hiệp giao nhận ma túy.

Vào khoảng 16 giờ 20 phút ngày 15/8/2018, tại bên hông nhà số 92/13 Lò Siêu, Phường 16, Quận 11, Tổ tuần tra Đội Cảnh sát điều tra về ma túy – Công an Quận 11 phát hiện đối tượng Liên Thanh Phc điều khiển xe mô tô biển số 59D1-769.74 chở theo đối tượng Hồ Vĩ L có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, Công an Quận 11 phát hiện đối tượng L đang cầm trên tay một túi thức ăn bên trong có 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu. Đối tượng L khai nhận chất trên là ma túy nên Tổ tuần tra đã đưa hai đối tượng về trụ sở Công an Phường 16, Quận 11 lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 1402/KLGĐ-H ngày 23/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Hồ Vĩ L và hình dấu của Công an Phường 16, Quận 11 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, khối lượng 0,5892g (BL 95).

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận 11, bị can Hồ Vĩ L khai nhận: Vào ngày 15/8/2018, do cần sử dụng ma túy, bị can L gọi điện thoại cho đối tượng Huỳnh Nguyệt P để hỏi mua 01 gói ma túy với giá 450.000 đồng. Phụng đồng ý và hẹn bị can L vào hẻm đường Tôn Thất Hiệp gần tiệm trò chơi game bắn cá để giao ma túy. Sau đó, bị can L gọi điện thoại cho ông Liên Thanh Phc (là người chạy xe ôm) để nhờ Phúc chở đi đến đường Tôn Thất Hiệp, Phường 12, Quận 11 để lấy đồ. Khi ông Phc chở bị can L đến đường Tôn Thất Hiệp thì bị can L xuống xe đi bộ vào trong hẻm, ông Phc ở ngoài đợi. Bị can L vào trong hẻm tìm đối tượng P để mua ma túy nhưng không gặp mà gặp chồng của Phụng là Phồng Cỏn S ra giao ma túy cho bị can L. Sau khi mua được ma túy, bị can L để gói ma túy vào trong túi nylon đựng thức ăn rồi đi bộ ra để ông Phc chở về nhà. Khi bị can L đi đến bên hông nhà số 92/13 Lò Siêu, Phường 16, Quận 11 thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, bị can L khai nhận trước đây có đến điểm trò chơi gam bắn cá ở trong hẻm đường Tôn Thất Hiệp (số 1162/73 Đường 3/2, Phường 12, Quận 11) để chơi và biết được đối tượng P có bán ma túy, bị can đã mua một gói ma túy với giá là 400.000 đồng, sau đó lấy số điện thoại của đối tượng P để liên lạc. Đối với ông Liên Thanh Phc, bị can L khai có quen biết ông Phc được khoảng một tháng do ông

Phc làm nghề chạy xe ôm. Việc bị can L mua và giấu ma túy trong túi thức ăn, ông Phc hoàn toàn không biết. Tiến  hành  điều  tra  mở  rộng  hai  vụ  án  trên,  vào  lúc  14  giờ  30  phút  ngày 28/8/2018, tổ tuần tra của Đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an Quận 11 phát hiện bắt quả tang tại trước khách sạn Kim Hương (số 122 Trần Quý, Phường 6, Quận 11), đối tượng Phồng Cỏn S đang cầm trên tay một gói nylon bên trong chứa chất tinh thể không màu; kiểm tra trong túi quần của đối tượng S có một phần viên nén tròn màu xanh. Tổ tuần tra đã dẫn giải đối tượng S về Công an Phường 6, Quận 11 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của đối tượng Phồng Cỏn S tại nhà số 1162/87 Đường 3/2, Phường 12, Quận 11, Công an phát hiện trong hộc tủ có 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, 01 cân điện tủ, 01 kéo, 01 kẹp gắp, túi nylon, các dụng cụ sử dụng và phân chia ma túy cùng các đồ vật liên quan. Trong khi khám xét có đối tượng Huỳnh Nguyệt P là người sống chung với đối tượng S như vợ chồng tại nhà số 1162/87 Đường 3/2, Phường 12, Quận 11. Đối tượng S và Phụng cùng khai gói nylon chứa chất tinh thể không màu là ma túy do Sáng mua về cất giữ để cùng Phụng phân ra bán cho người nghiện.

Tại Bản kết luận giám định số 1459/KLGĐ-H ngày 05/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định:

+ Gói 1: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong (ký hiệu M1) bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Phồng Cỏn S và hình dấu của Công an Phường 16, Quận 11 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, khối lượng 2,4837g.

+ Gói 2: Một phần viên nén hình tròn màu xanh trong 01 gói nylon được niêm phong (ký hiệu M2) bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Phồng Cỏn S và hình dấu của Công an Phường 6, Quận 11 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, loại MDMA, khối lượng 0,2234g. Sau khi giám định, khối lượng ma túy còn lại là 0,1520g (BL 187).

Tại Bản kết luận giám định số 1460/KLGĐ-H ngày 05/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Huỳnh Nguyệt P, Trần Quang Hải và hình dấu của Công an Phường 12, Quận 11 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, khối lượng 4,9849g (BL 185).

Tại Cơ quan điều tra, bị can Phồng Cỏn S khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, cả hai vợ chồng Sáng và Phụng không có việc làm ổn định nên khoảng 02 tháng trước khi bị bắt, bị can S bắt đầu mua ma túy về phân nhỏ ra để bán lại cho người nghiện và lấy phần ma túy dư ra để sử dụng. Bị can S khai nhận mua ma túy của một người tên Dân (không rõ lai lịch) ở cầu Nhị Thiên Đường, Quận 8 về cùng với bị can P bán lại cho người nghiện. Khi mua số ma túy đá (Methamphetamine), đối tượng Dân đã cho bị can ½ viên thuốc lắc (loại MDMA) để sử dụng. Ngoài ra, bị can S còn khai nhận như sau:

+ Vào khoảng giữa tháng 8 năm 2018, bị can S có bán cho bị can Hồ Vĩ L một gói ma túy với giá là 450.000 đồng tại gần điểm trò chơi game bắn cá ở trong hẻm đường Tôn Thất Hiệp, Phường 12, Quận 11. Khi đó, bị can L gọi điện thoại cho bị can P hỏi mua ma túy nhưng do Phụng đang trông con nên nhờ bị can S giao ma túy cho bị can L.

+ Khoảng đầu tháng 8 năm 2018, bị can Đoàn Trung H có gọi điện thoại qua số 0902645328 của bị can S để mua ma túy với giá 100.000 đồng, giao tại trước điểm trò chơi game bắn cá trong hẻm đường Tôn Thất Hiệp, Phường 12, Quận 11. Sau đó khoảng 2 tuần, bị can H tiếp tục gọi điện thoại cho Sáng để mua ma túy nhưng do bị can S đang ngủ không nghe máy nên bị can P nghe máy và đã lấy ma túy bán cho bị can H với giá 100.000 đồng, giao ở đầu hẻm đường Tôn Thất Hiệp, Phường 12, Quận 11. Sau khi bị can S ngủ dậy, bị can P có nói lại và giao lại tiền cho bị can S.

Bị can Huỳnh Nguyệt P khai nhận: Bản thân nghiện ma túy và hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị can mới sinh con, chồng không có việc làm ổn định nên khi biết bị can S mua ma túy về phân chia bán lại cho người khác để có ma túy sử dụng thì bị can P đã giúp sức cho Sáng bán ma túy cho những người nghiện. Cụ thể như sau:

+ Vào ngày 28/8/2018 bị can P nhận được tin nhắn qua điện thoại của một người tên Hậu hỏi mua một gói ma túy với giá 200.000 đồng, bị can P đang ở nhà số 1162/87 Đường 3/2, Phường 12, Quận 11 phân chia ma túy, chưa kịp giao thì bị Công an vào khám xét và bắt giữ.

+ Vào khoảng đều tháng 8 năm 2018, bị can H gọi điện thoại qua số 0902645328 của bị can S đe73 hỏi mua ma túy nhưng do bị can S đang ngủ nên bị can P đã nghe máy và lấy 01 gói ma túy bán cho bị can H với giá là 100.000 đồng.

+ Bị can P khai trước đây có bán cho bị can Hồ Vĩ L một gói ma túy với giá là 400.000 đồng tại điểm trò chơi game bắn cá trong hẻm đương Tôn Thất Hiệp, Phường 12, Quận 11 (bị can P không nhớ rõ thời gian). Đến ngày 15/8/2018 bị can L tiếp tục gọi cho bị can P hỏi mua 01 gói ma túy với giá 450.000 đồng nhưng bị can P bận nên nhờ bị can S giao ma túy cho bị can L tại gần điểm điểm trò chơi game bắn cá trong hẻm đương Tôn Thất Hiệp, Phường 12, Quận 11.

Kiểm tra điện thoại của bị can P, Công an phát hiện có tin nhắn hỏi mua ma túy của đối tượng Trần Trung Hu (sinh năm 1994; cư trú tại 603 Trần Đại Nghĩa, phường Tân Tạo A, quận Bình Tân). Tại Cơ quan điều tra, đối tượng Trần Trung Hu khai nhận đã mua ma túy của bị can P nhiều lần để sử dụng. Vào ngày 28/8/2018, Hậu và đối tượng Lê Hoàng Th (sinh ngày 27/02/2001; cư trú tại 603 Trần Đại Nghĩa, phường Tân Tạo A, quận Bình Tân) rủ nhau hùn tiền mỗi người 100.000 đồng để mua ma túy sử dụng. Sau đó Hậu nhắn tin cho bị can P để hỏi mua một gói ma túy với giá 200.000 đồng nhưng chưa kịp mua thì bị Công an mời về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan điều tra, đối tượng Lê Hoàng Th có lời khai nhận phù hợp với lời khai của đối tượng Trần Trung Hu.

Vật chứng của vụ án gồm có:

- Thu giữ của bị can Đoàn Trung H gồm: 01 gói ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đen dùng để liên lạc mua ma túy; 01 xe máy kiểu dáng Wave màu xanh biển số 68S2-0557. Qua xác minh chiếc xe trên do bà Nguyễn Thị T đứng tên chủ sở hữu. Bà T đã bán lại cho bà Trần Thị Thu A vào cuối năm 2017. Ngày 08/8/2018 bị can H mượn xe của bà A để đi công việc. Việc bị can H sử dụng xe để đi mua ma túy thì bà A hoàn toàn không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã xử lý vật chứng trả lại cho bà Trần Thị Thu A chiếc xe máy biển số 68S2-0557.

- Thu giữ của bị can Hồ Vĩ L gồm: 01 gói ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen dùng để liên lạc mua ma túy.

- Thu giữ của ông Liên Thanh Phc gồm: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ; 01 bình gas mini; 03 quẹt gas và 01 xe máy hiệu Wave màu đỏ, biển số 59D1- 769.74. Qua xác minh chiếc xe máy trên do bà Triệu Thị Kim Th đứng tên chủ sở hữu. Bà T khai đã bán cho người khác đã lâu và không nhớ bán cho ai. Ông Liên Thanh Phc khai chiếc xe trên do ông Phc mượn của em là ông Trần Thanh H để làm phương tiện chạy xe ôm. Ông Trần Thanh H khai chiếc xe trên do ông H mua lại của người khác vào tháng 8/2014 nhưng chưa sang tên và có giấy tờ đăng ký xe đầy đủ. Kiểm tra máy điện thoại của ông Phc không có liên quan đến việc mua bán ma túy. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho ông Trần Thanh H chiếc xe máy hiệu Wave màu đỏ, biển số 59D1-769.74 và trả lại các tài sản khác cho ông Liên Thanh Phc.

- Thu giữ của bị can Phồng Cỏn S gồm:

+ 02 gói ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen dùng để liên lạc mua bán ma túy; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 850.000 đồng; 01 xe máy hiệu Grande màu xanh biển số 59D2-551.70. Qua xác minh, chiếc xe trên do bà Huỳnh Thị Kim H đứng tên chủ sở hữu. Bà H cầm cố chiếc xe trên cho một người tên Mía không rõ lai lịch ở Quận 11. Cơ quan điều tra đã làm việc với Phồng K (còn gọi là Mía, là em của bị can S, đang bị tạm giam trong vụ án khác). K khai chiếc xe máy trên do một người tên Huyền thế chấp cho K để vay 15.000.000 đồng; K để xe ở nhà cho mọi người cùng sử dụng chung. Đến ngày 28/8/2018 khi bị can S đang sử dụng xe thì bị bắt.

+ Thu giữ tại nhà của bị cáo Phồng Cỏn S và bị can Huỳnh Nguyệt P gồm: 01 gói ma túy; 02 quẹt gas; 02 kéo; 02 kẹp gắp; 01 ống hút nhựa cắt nhọn một đầu; 01 chai nhựa gắn ống hút; 04 ống thủy tinh đầu phểu tròn; 01 chai nhựa gắn ống hút; 01 ống thủy tinh đầu phểu tròn 03 cân điện tử hiệu Amput; 20 vỏ túi nylon nhỏ; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng; 01 điện thoại di động hiệu HTC màu trắng đen; 01 điện thoại di động màu hồng đen; 01 điện thoại di động hiệu Docomo màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xám bị vở màn hình.

-  Thu giữ  của đối tượng  Trần Trung Hu  gồm: 01  điện  thoại di động hiệu Samsung màu đen; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 210.000 đồng; 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius màu đen xám biển số 84K1-219.46. Qua xác minh chiếc xe máy trên do ông Thạch Khải H là chủ sở hữu. Ngày 28/8/2018 ông H có cho đối tượng Hu và Th mượn xe đi công việc. Việc Hu và Th mượn xe đi đâu và làm gì ông H hoàn toàn không biết nên Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho ông Thạch Khải H xe máy hiệu Yamaha Sirius màu đen xám biển số 84K1-219.46.

Tại Bản cáo trạng số 15/CT-VKSQ11 ngày 30/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo Phồng Cỏn S tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 và tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, c, i Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Huỳnh Nguyệt P tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, c, i Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Đoàn Trung H, Hồ Vĩ L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo Phồng Cỏn S, Huỳnh Nguyệt P, Đoàn Trung H và Hồ Vĩ L có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là các ông, bà Lê Hoàng Th, Trần Trung Hu và Huỳnh Thị Kim H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11. Lời khai của các đương sự đã rõ nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải hoãn phiên tòa để triệu tập các đương sự trình bày lại.

Trong vụ án có người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Phồng K là người đã nhận cầm cố chiếc xe máy hiệu Grande màu xanh biển số 59D2-551.70 của bà Huỳnh Thị Kim H để người nhà sử dụng chung. Bà H đã xác nhận sự việc trên tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11. Đồng thời bà K đang bị tạm giam trong một vụ án khác nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết triệu tập bà K tham dự phiên tòa. Hội đồng xét xử sẽ căn cứ các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa để xử lý đối với vật chứng là chiếc xe máy hiệu Grande màu xanh biển số 59D2-551.70.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo như sau:

- Đề nghị xử phạt bị cáo Phồng Cỏn S từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạt tiền bổ sung từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

- Đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Nguyệt P từ 07 năm đến 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạt tiền bổ sung từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

- Đề nghị xử phạt bị cáo Đoàn Trung H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Đề nghị xử phạt bị cáo Hồ Vĩ L từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Vào lúc 12 giờ 50 phút ngày 08/8/2018, tại điểm trò chơi game bắn cá tại địa chỉ số 1162/73 Đường 3/2, Phường 12, Quận 11, bị cáo Phồng Cỏn S đã có hành vi bán cho bị cáo Đoàn Trung H một gói ma túy có khối lượng là 0,1880 gam, loại Methamphetamine với giá là 100.000 đồng. Trước đó khoảng hai tuần, bị cáo H có gọi điện thoại cho bị cáo S để hỏi mua một gói ma túy với giá 100.000 đồng để sử dụng nhưng do bị cáo Huỳnh Nguyệt P nghe máy và trực tiếp giao ma túy cho bị cáo H tại đầu hẻm đường Tôn Thất Hiệp, Phường 12, Quận 11.

Vào lúc 16 giờ 20 phút ngày 15/8/2018, tại hẻm đường Tôn Thất Hiệp, Phường 12, Quận 11, bị cáo Phồng Cỏn S Sáng và bị cáo Huỳnh Nguyệt P tiếp tục có hành vi bán  cho  bị  cáo  Hồ  Vĩ  L  một  gói  ma  túy  có  khối  lượng  là  0,5892  gam,  loại Methamphetamine với giá là 450.000 đồng. Trước đó, vào khoảng cuối tháng 7/2018, tại hẻm đường Tôn Thất Hiệp, Phường 12, Quận 11, bị cáo P đã có hành vi bán cho bị cáo Hồ Vĩ L một gói ma túy với giá là 400.000 đồng.

Vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 28/8/2018, tại trước khách sạn Kim Hương, số 122

Trần Quý, Phường 6, Quận 11, bị cáo Phồng Còn Sáng có hành vi hẹn gặp để bán ma túy với giá là 200.000 đồng cho đối tượng tên Tuấn (chưa xác định được lai lịch).

Trong lúc chờ đối tượng Tuấn để giao nhận ma túy thì bị cáo S đã bị Công an Quận 11 kiểm tra phát hiện và bắt quả tang.

Ngoài hành vi bán ma túy cho bị cáo Đoàn Trung H và bị cáo Hồ Vĩ L, trong ngày 28/8/2018, bị cáo Huỳnh Nguyệt P đã nhận tin nhắn hỏi mua ma túy với giá 200.000 đồng của hai đối tượng Trần Trung Hu và Lê Hoàng Th. Bị cáo P chưa kịp giao ma túy cho các đối tượng, còn đang chuẩn bị phân chia ma túy thì bị Công an kiểm tra, khám xét nơi ở và bắt quả tang.

Hành vi của các bị cáo Phồng Cỏn S và Huỳnh Nguyệt P là nguy hiểm cho xã hội, đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo Phồng Cỏn S và Huỳnh Nguyệt P thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích thu lợi chênh lệch để sử dụng ma túy và để tiêu xài.

Các bị cáo Phồng Cỏn S và Huỳnh Nguyệt P đã hai lần bán ma túy cho bị cáo Hồ Vĩ L và bị cáo Đoàn Trung H; thuộc trường hợp phạm tội hai lần trở lên và mua bán với hai người trở lên, là tình tiết định khung quy định tại điểm b, điểm c Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tổng khối lượng ma túy mà bị cáo Phồng Cỏn S và Huỳnh Nguyệt P dùng để bán cho người nghiện, bị cáo Hồ Vĩ L và bị cáo Đoàn Trung H là 8,2458 gam. Đây là tình tiết định khung quy định tại điểm i Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 28/8/2018, tại trước khách sạn Kim Hương (số 122 Trần Quý, Phường 6, Quận 11), bị cáo Phồng Cỏn S có hành vi cất giữ ma túy với khối lượng là 0,2234 gam, loại MDMA. Bị cáo cất giữ số ma túy trên nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Phồng Cỏn S đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo Đoàn Trung H, vào lúc 12 giờ 50 phút ngày 08/8/2018, tại trước nhà số 269/17 Nguyễn Thị Nhỏ, Phường 16, Quận 11, bị cáo H đã có hành vi cất giữ trong  túi  quần  phía  trước  bên  trái  01  túi  nylon  có  chứa  chất  ma  túy,  loại Methamphetamine, khối lượng là 0,1880 gam.

Đối với bị cáo Hồ Vĩ L, vào lúc 16 giờ 20 phút ngày 15/8/2018, tại bên hông nhà số 92/13 Lò Siêu, Phường 16, Quận 11, bị cáo L đã có hành vi cất giấu bên trong túi thức ăn một gói nylon chứa chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,5892 gam.

Các bị cáo Đoàn Trung H và bị cáo Hồ Vĩ L cất giấu ma túy nhằm mục địch sử dụng. Hành vi của bị cáo Đoàn Trung H và bị cáo Hồ Vĩ L đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của các bị cáo Phồng Cỏn S, Huỳnh Nguyệt P, Đoàn Trung H và Hồ Vĩ L đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự xã hội. Các bị cáo hoàn toàn ý thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng trị và giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa chung.

 [2] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Đoàn Trung H phạm tội lần đầu nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

 [3] Về xử lý vật chứng:

- Đối với vật chứng là một gói được niêm phong thu giữ của bị cáo Đoàn Trung H; một gói được niêm phong thu giữ của bị cáo Hồ Vĩ L; ba gói niêm phong thu giữ của bị cáo Phồng Cỏn S và Huỳnh Nguyệt P bên trong có ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ. Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với vật chứng là một điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đen thu giữ của bị cáo Đoàn Trung H; một điện thoại di động hiệu Nokia màu đen thu giữ của bị can Hồ Vĩ L; một điện thoại di động hiệu Nokia màu đen thu giữ của Phồng Cỏn S; một điện thoại di động hiệu Nokia màu đen thu giữ của bị cáo Huỳnh Nguyệt P là phương tiện các bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy. Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với vật chứng là hai quẹt gas; hai kéo; hai kẹp gắp; một ống hút nhựa cắt nhọn một đầu; hai chai nhựa gắn ống hút; năm ống thủy tinh đầu phểu tròn; hai mươi

vỏ túi nylon nhỏ là dụng cụ để phân chia mua bán và sử dụng ma túy. Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với vật chứng là ba cân điện tử hiệu Amput thu giữ của bị cáo Phồng Cỏn S là công cụ dùng vào việc phạm tội. Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với vật chứng là một điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng; một điện thoại di động hiệu HTC màu trắng đen; một điện thoại di động màu hồng đen; một điện thoại di động hiệu Docomo màu đen; một điện thoại di động hiệu Samsung màu xám bị vở màn hình và tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 850.000 đồng là tài sản cá nhân thu giữ của bị cáo Phồng Cỏn S không phải là tài sản do bị cáo thu được hoặc phương tiện để mua bán ma túy. Căn cứ điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử giải quyết trả lại cho bị cáo Phồng Cỏn S.

- Đối với vật chứng là một điện thoại di động hiệu Samsung màu đen; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 210.000 đồng thu giữ của ông Trần Trung Hu không xác định được là phương tiện, công cụ đã dùng vào việc phạm tội. Căn cứ điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử giải quyết trả lại cho ông Trần

Trung Hu.

- Đối với vật chứng là xe máy kiểu dáng Wave màu xanh biển số 68S2-0557 thu giữ của bị cáo Đoàn Trung H. Qua xác minh chiếc xe trên do bà Nguyễn Thị T đứng tên chủ sở hữu. Bà T đã bán lại cho bà Trần Thị Thu A vào cuối năm 2017. Ngày 08/8/2018 bị cáo H mượn xe của bà A để đi công việc. Việc bị cáo H sử dụng xe để đi mua ma túy thì bà A hoàn toàn không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã xử lý vật chứng trả lại cho bà Trần Thị Thu A chiếc xe máy biển số 68S2-0557. Căn cứ điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã xử lý vật chứng đúng quy định của pháp luật nên không giải quyết lại.

- Đối với vật chứng thu giữ của ông Liên Thanh Phc gồm: một bình gas mini; ba quẹt gas và một xe máy hiệu Wave màu đỏ, biển số 59D1-769.74. Qua xác minh chiếc xe máy trên do bà Triệu Thị Kim T đứng tên chủ sở hữu. Bà T khai đã bán cho người khác đã lâu và không nhớ bán cho ai. Ông Liên Thanh Phc khai chiếc xe trên do ông Phc mượn của em là ông Trần Thanh H để làm phương tiện chạy xe ôm. Ông Trần Thanh H khai chiếc xe trên do ông H mua lại của người khác vào tháng 8/2014 nhưng chưa sang tên và có giấy tờ đăng ký xe đầy đủ. Kiểm tra máy điện thoại của ông Phc không có liên quan đến việc mua bán ma túy. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho ông Trần Thanh H chiếc xe máy hiệu Wave màu đỏ, biển số 59D1- 769.74 và trả lại các tài sản khác cho ông Liên Thanh Phc. Căn cứ điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã xử lý vật chứng đúng quy định của pháp luật nên không giải quyết lại.

- Đối với vật chứng là một xe máy hiệu Grande màu xanh biển số 59D2-551.70. Qua xác minh, chiếc xe trên do bà Huỳnh Thị Kim H đứng tên chủ sở hữu. Bà H cầm cố chiếc xe trên cho một người tên Mía không rõ lai lịch ở Quận 11. Cơ quan điều tra đã làm việc với bà Phồng K (còn gọi là Mía, là em của bị can S, đang bị tạm giam trong vụ án khác). Bà K khai chiếc xe máy trên do một người tên Huyền thế chấp cho K để vay 15.000.000 đồng; K để xe ở nhà cho mọi người cùng sử dụng chung. Đến ngày 28/8/2018 khi bị cáo S đang sử dụng xe thì bị bắt. Hội đồng xét xử xét thấy bà K là người quản lý chiếc xe trên hợp pháp căn cứ trên thỏa thuận thế chấp với chủ sở hữu là bà Huỳnh Thị Kim H. Việc bị cáo Phồng Cỏn S sử dụng xe để đi mua bán ma túy, bà K không biết. Căn cứ điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử giải quyết trả lại xe máy hiệu Grande màu xanh biển số 59D2-551.70 cho bà Phồng K tiếp tục quản lý.

- Đối với vật chứng là một xe máy hiệu Yamaha Sirius màu đen xám biển số 84K1-219.46 thu giữ của ông Trần Trung Hu. Qua xác minh chiếc xe máy trên do ông Thạch Khải H là chủ sở hữu. Ngày 28/8/2018 ông H có cho ông Hu và Th mượn xe đi công việc. Việc Hu và Th mượn xe đi đâu và làm gì ông H hoàn toàn không biết nên Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho ông Thạch Khải H xe máy hiệu Yamaha Sirius màu đen xám biển số 84K1-219.46. Căn cứ điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã xử lý vật chứng đúng quy định của pháp luật nên không giải quyết lại.

 [4] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Phồng Cỏn S, Huỳnh Nguyệt P, Đoàn Trung H và Hồ Vĩ L, điều tra viên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 được phân công điều tra, kiểm sát giải quyết vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên. Do đó, có cơ sở để xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

 [5] Đối với đối tượng tên Dân cung cấp ma túy cho bị cáo Phồng Cỏn S, do chưa rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ; khi điều tra, truy xét được sẽ xử lý sau.

Đối với đối tượng tên Tuấn là người đã liên lạc và hẹn mua ma túy của bị cáo Phồng Cỏn S vào ngày 28/8/2018 tại trước khách sạn Kim Hương, số 122 Trần Quý, Phường 6, Quận 11, hiện chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý là có căn cứ; khi điều tra, truy xét được sẽ xử lý sau.

Đối với ông Liên Thanh Phc là người hành nghề chạy xe ôm. Bị cáo L thuê ông Phc chở đi mua ma túy nhưng ông Phc không hay biết nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

Đối với hai đối tượng Trần Trung Hu và Nguyễn Hoàng Th đã nhắn tin hỏi mua ma túy của bị cáo Huỳnh Nguyệt P nhưng chưa thực hiện việc mua bán thì bị Cơ quan điều tra triệu tập đến làm việc. Các đối tượng chưa thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

 [6] Về án phí:

Các bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 50; điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm b, c, i Khoản 2, Khoản 5 Điều 251;  điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phồng Cỏn S;

Căn cứ vào Điều 50; điểm b, c, i Khoản 2, Khoản 5 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Huỳnh Nguyệt P;

Căn cứ vào Điều 50; điểm c Khoản 1 Điều 249;  điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Đoàn Trung H;

Căn cứ vào Điều 50; điểm c Khoản 1 Điều 249;  điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Hồ Vĩ L;

Tuyên bố bị cáo Phồng Cỏn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Nguyệt P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tuyên bố bị cáo Đoàn Trung H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tuyên bố bị cáo Hồ Vĩ L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phồng Cỏn S 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành mức hình phạt chung là 09 (chín) năm tù; phạt tiền bổ sung 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng. Thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2018.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Nguyệt P 07 (bảy) năm tù; phạt tiền bổ sung 10.000.000 (mười triệu) đồng. Thời hạn tù tính từ ngày 29/3/2019.

Xử phạt bị cáo Đoàn Trung H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2018.

Xử phạt bị cáo Hồ Vĩ L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/8/2018.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy một gói được niêm phong thu giữ của bị cáo Đoàn Trung H; một gói được niêm phong thu giữ của bị cáo Hồ Vĩ L; ba gói niêm phong thu giữ của bị cáo Phồng Cỏn S và Huỳnh Nguyệt P bên trong có ma túy còn lại sau giám định (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 126/LNK ngày 13/8/2018, Lệnh nhập kho vật chứng số 130/LNK ngày 17/8/2018 và Lệnh nhập kho vật chứng số 137/LNK ngày 31/8/2018).

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước một điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đen thu giữ của bị cáo Đoàn Trung H; một điện thoại di động hiệu Nokia màu đen thu giữ của bị cáo Hồ Vĩ L; một điện thoại di động hiệu Nokia màu đen thu giữ của bị cáo Phồng Cỏn S; một điện thoại di động hiệu Nokia màu đen thu giữ của bị cáo Huỳnh Nguyệt P (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 126/LNK ngày 13/8/2018,

Lệnh nhập kho vật chứng số 130/LNK ngày 17/8/2018 và Lệnh nhập kho vật chứng số 137/LNK ngày 31/8/2018).

- Tịch thu tiêu hủy hai quẹt gas; hai kéo; hai kẹp gắp; một ống hút nhựa cắt nhọn một đầu; hai chai nhựa gắn ống hút; năm ống thủy tinh đầu phểu tròn; hai mươi vỏ túi nylon nhỏ (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 137/LNK ngày 31/8/2018).

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước ba cân điện tử hiệu Amput thu giữ của bị cáo Phồng Cỏn S (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 137/LNK ngày 31/8/2018).

- Trả lại cho bị cáo Phồng Cỏn S một điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng; một điện thoại di động hiệu HTC màu trắng đen; một điện thoại di động màu hồng đen; một di động hiệu Docomo màu đen; một điện thoại di động hiệu Samsung màu xám bị vở màn hình và tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 850.000 đồng (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 137/LNK ngày 31/8/2018).

- Trả lại cho ông Trần Trung Hu một điện thoại di động hiệu Samsung màu đen; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 210.000 đồng (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 137/LNK ngày 31/8/2018).

- Trả lại cho bà Phồng K một xe máy hiệu Grande màu xanh biển số 59D2- 551.70 (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 137/LNK ngày 31/8/2018).

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1470
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về