Bản án 23/2019/HS-ST ngày 10/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN Q. THANH KHÊ, TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 10/04/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 10 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2019/QĐXXST–HS ngày 25 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

LÊ ĐÌNH L, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Sinh năm 1993 tại Đà Nẵng. 

Nơi cư trú: Tổ A, phường B, quận C, TP. Đà Nẵng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 09/12.

Nghề nghiệp: Lái xe.

Con ông: Lê Đình B (sinh năm 1961) và bà Trương Thị Kim V (sinh năm1961).

Tiền án: Ngày 06/02/2015 bị Tòa án nhân dân Tp Đà Nẵng xử phạt 03 năm 09 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích", chấp hành xong hình phạt vào ngày 18/11/2017.

Tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 06/12/2018. Hiện có mặt tại phiên tòa.

*Bị hại: Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1969, trú tại: Số nhà A đường B, quận C, Tp Đà Nẵng. (Có mặt).

*Người có quyền L nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1994, trú tại: tổ B, phường C, quận D, Tp Đà Nẵng.(Vắng mặt)

2/ Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1995, trú tại: Số nhà B đường C, phường D, quận E, Tp Đà Nẵng. (Vắng mặt)

3/ Ông Phan Kiều Đức Kh, sinh năm 1976, trú tại: Số nhà C đường D,phường E, quận F, Tp Đà Nẵng. (Vắng mặt)

*Người làm chứng:

1/ Ông Nguyễn Công T, sinh năm 1973, trú tại: Số nhà B đường A, phường B, quận C, Tp Đà Nẵng. (Vắng mặt)

2/ Ông Nguyễn Th, sinh năm 1968, trú tại: Số nhà C đường A, quận B, Tp Đà Nẵng. (Có mặt).

3/ Ông Nguyễn Tr, sinh năm 1976, trú tại: Số nhà B1 đường A1, quận C1,Tp Đà Nẵng. (Vắng mặt)

4/ Ông Võ Văn Thiện N, sinh năm 1976, trú tại: Số nhà B2 đường A2, quận C2, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 4 năm 2018, Nguyễn Minh H thông qua Nguyễn Ngọc H có vay của Lê Đình L số tiền 83.000.000đồng không có lãi suất (H đứng ra bảo lãnh và thu nợ cho L. Do H nhiều lần đến nhà đòi nợ nhưng H chưa có tiền trả nên đã lẩn tránh. Đến ngày 24/5/2018 ông Nguyễn Minh H (là cha của H) đứng ra trả cho H số tiền 50.000.000 đồng, còn lại 33.000.000 đồng hẹn sẽ trả sau.

Khoảng 17 giờ 00 ngày 18/9/2018, H ngồi nhậu cùng với ông NguyễnMinh H, Nguyễn Công T; Nguyễn Th; Nguyễn Tr và Võ Văn Thiện N tại vỉa hè trước số nhà 338 Nguyễn Phước Nguyên, thành phố Đà Nẵng. Lúc này L chạy xe ngang qua thì thấy H đang ngồi nhậu nên L chạy xe về nhà mình tại số 519 Tôn Đản, thành phố Đà Nẵng lấy 01 con dao dài khoảng 30cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng có cán gỗ dài khoảng 10cm bỏ vào trong cốp xe Airblade màuđen xám, biển số 43D1-530.36 để đến chỗ H đòi tiền nợ. Trên đường đi thì L gặp một người bạn tên Hải (chưa rõ nhân thân lai lịch) chở theo một người thanh niên, L nói Hải đi lấy tiền nợ thì Hải đồng ý. Sau đó cả ba chạy trên 02 xe mô tô đến chỗ H. Khi đến nơi thì cả ba dừng xe lại ở lề đường trước chỗ H đang ngồi, L mở cốp xe AirBlade lấy con dao cầm trên tay phải đi đến chỗ H còn 02 người thanh niên đi cùng thì đứng ngoài. L cầm dao giơ lên chỉ về hướng của H đòi tiền nợ thì H đứng dậy cầm ghế nhựa trên tay nên L cầm dao chạy đến đuổi đánh H. Thấy vậy ông H đứng dậy cản L lại nên L cầm dao đâm 01 nhát theo hướng từ trên xuống vào người ông H, thì ông H đưa tay trái lên đỡ nên bị thương tích ở cẳng tay trái. Lúc này ông H ôm L lại thì L cầm dao cứa 01 nhát trúng vào cẳng tay trái ông H gây thương tích. Ông H giằng co vật L ngã xuống đất rồi giật lấy con dao trên tay L đưa cho anh T mang vào trong nhà cất. Sau đó, ông H đứng dậy dùng chân đá một cái trúng vào đầu của L, cùng lúc H xông đến dùng tay chân đánh đá nhiều cái vào người của L làm L bất tỉnh. Thấy vậy hai người thanh niên đi cùng L bỏ chạy. Sau đó mọi người đưa ông H và L đi cấp cứu tại bệnh viện.

* Vật chứng thu giữ:

+ 01 con dao dài khoảng 30cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng có cán gỗ dài khoảng 10cm do anh Nguyễn Công T giao nộp.

Hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

+ 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đen-bạc BKS 43D1-530.36. Số máy 6305FZ388882, số khung JF63E1388 do anh Phan Kiều Đức Kh đứng tên chủ sở hữu. Anh Kh cho L mượn xe để đi có việc, anh Kh không biết việc L sửdụng xe làm phương tiện phạm tội, nên ngày 25/12/2018 Cơ quan Cảnh sát điềutra Công an quận Thanh Khê trả lại xe mô tô biển kiểm soát 43D1-530.36 cho anh Kh.

* Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 301/TgT ngày06/11/2018 của Trung tâm Pháp y TP. Đà Nẵng kết luận thương tích của ôngNguyễn Minh H bị thương tích như sau: “1. Dấu hiệu chính qua giám định:Vết thương cẳng tay trái (V2): Rách toàn phần cơ duỗi cổ tay quay và đứt thần kinh bì cẳng tay ngoài đã điều trị khâu cơ, khâu nối thần kinh, cầm máu, khâu vết thương, đặt nẹp cẳng bàn tay trái... Tổn thương dẫn truyền cảm giác dây thần kinh cơ bì cẳng tay ngoài.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 14% (mười bốn phần trăm).

3. Vật gây thương tích: Hai vết thương ở cẳng tay trái phù hợp với vật có cạnh sắc gây nên."

Tại bản Cáo trạng số 27/CT-VKSTK ngày 12/3/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Lê Đình L về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1) Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị HĐXX căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Lê Đình L phạm tội “Cố ý gây thương tích” và:

Áp dụng: Điểm đ khoản 2 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Lê Đình L mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao dài khoảng 30cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng có cán gỗ dài khoảng 10cm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Lê Đình L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Do Nguyễn Minh H vay mượn tiền của Lê Đình L còn thiếu nợ nhưng chưa trả nên khoảng 17 giờ ngày 18/9/2018, khi thấy H đang ngồi nhậu cùng với Nguyễn Minh H, Nguyễn Công T, Nguyễn Th, Nguyễn Tr và Võ Văn Thiện N thì L chạy xe về nhà tại 519 Tôn Đản, Tp Đà Nẵng lấy 01 con dao dài khoảng 30 cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng có cán gỗ dài khoảng 10 cm bỏ vào trong cốp xe để đến chỗ H đòi nợ, trên đường đi L rủ thêm 02 thanh niên. Đến nơi, L cầm con dao giơ lên chỉ về hướng của H đòi tiền nợ thì H đứng dậy cầm ghế nhựa trên tay nên L cầm dao chạy đến đuổi đánh H. Thấy vậy ông H đứng dậy cản L lại thì bị L cầm dao đâm 01 nhát theo hướng từ trên xuống vào người ông H, thì ông H đưa tay trái lên đỡ nên bị thương tích ở cẳng tay trái. Lúc này ông H ôm L lại thì L cầm dao cứa 01 nhát trúng vào cẳng tay trái ông H. Hậu quả, ông H bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 14 %.

Mặc dù không có mâu thuẫn gì với bị hại là ông Nguyễn Minh H, nhưng bị cáo Lê Đình L đã dùng dao gây thương tích cho ông H với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 14 %. Do đó, bị cáo L phải chịu trách nhiệm hình sự thuộc tình tiết định khung là “dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm đ khoản 2 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1) Điều 134 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 27/CT-VKSTK ngày 12/3/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Quyền về tính mạng, sức khỏe là vốn quý của con người, là khách thể đặc biệt được Nhà nước và pháp luật hình sự bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đến sức khỏe thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Hành vi của các bị cáo có mức độ nguy hiểm, thể hiện tính liều lĩnh, côn đồ và nguy hiểm cho xã hội. Xuất phát từ việc Nguyễn Minh H – con ruột bị hại vay mượn tiền, còn tH nợ của bị cáo nhưng chưa trả nên khi thấy H thì bị cáo về lấy dao để đánh H đòi nợ, thấy vậy ông H cha H ngăn cản thì bị cáo đã dùng dao gây thương tích cho bị hại là ông Nguyễn Minh H, mặc dù giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì. Hành vi của bị cáo có tính chất côn đồ. Do đó cần phải xử bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội mà hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo có điều kiện cải tạo tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Xét về những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo thì thấy:

Bị cáo có tiền án: Ngày 06/02/2015 bị Tòa án nhân dân Tp Đà Nẵng xử phạt 03 năm 09 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích", chấp hành xong hình phạt vào ngày 18/11/2017. Do đó lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo bồi thường cho bị hại và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được áp dụng cho bị cáo.

Từ những phân tích trên, xét lời luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh cũng như đề nghị mức hình phạt là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, về áp dụng điều luật Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê Đình L là chưa tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 con dao dài khoảng 30cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng có cán gỗ dài khoảng 10cm do anh Nguyễn Công T giao nộp, là công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với: 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đen-bạc BKS 43D1-530.36. Số máy 6305FZ388882, số khung JF63E1388 do anh Phan Kiều Đức Kh đứng tên chủ sở hữu. Anh Kh cho L mượn xe để đi có việc, anh Kh khôngbiết việc L sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, nên ngày 25/12/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê trả lại xe mô tô biển kiểm soát43D1-530.36 cho anh Kh, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

 [5] Về trách nhiệm dân sự: L đã tự thỏa thuận bồi thường cho ông H10.000.000 đồng tiền thuốc men chữa trị thương tích và ông H không yêu cầu bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Nguyễn Minh H, Nguyễn Minh H có hành vi dùng tay chân đánh L nhưng thương tích không đáng kể và L không có yêu cầu giám định thương tích, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Xâm hại đến sức khỏe của người khác là có căn cứ.

Đối với hai người thanh niên đi cùng L hiện chưa rõ nhân thân lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[7] Án phí HSST: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Đình L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

 1. Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Đình L 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/12/2018.

*Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao dài khoảng 30cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng có cán gỗ dài khoảng 10cm.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/3/2019).

*Án phí HSST: Bị cáo Lê Đình L phải chịu 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền L, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao (hoặc niêm yết) bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 10/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về