Bản án 23/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 12/2019/TLST- HS ngày 21 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn T; sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: đường A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn T1, sinh năm 1969 và bà: Bùi Thị N, sinh năm 1973 ;vợ: Nguyễn Kim C1, sinh năm 1995; 01 con 03 tuổi;

Nhân thân: Bản án số 114/HSST ngày 26/10/2010 Tòa án nhân dân Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Bản án số 22/HSST ngày 07/03/2012 Tòa án nhân dân Quận 11, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền án: Bản án số 58/HSST ngày 16/05/2017 Tòa án nhân dân Quận 6, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Tiền sự: Không

Bị bắt tạm giam ngày: 15/11/2018.

 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Anh Phạm Văn C2, sinh năm 1984, hộ khẩu thường trú: Xã I, huyện F, tỉnh Thanh Hóa – Tạm trú: đường Q, phường K, Quận Z, Tp. Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền để tiêu xài nên T nẩy sinh ý định trộm xe gắn máy để bán kiếm tiền. Trưa ngày 14/11/2018 T chuẩn bị sẵn và để trong túi quần một đoản tự chế bằng kim loại hình L, hai chìa khóa xe gắn máy rồi thuê xe ôm chở đến khu vực đường Lạc Long Quân.Tại đây, T đi bộ một mình hướng về ngã tư Bảy Hiền được một đoạn thì thấy trên lề đường trước nhà 1032 Lạc Long Quân, Phường 8, quận Tân Bình có dựng một xe gắn máy biển kiểm soát 53V8-5071 không có người trông coi. Phát hiện xe không khóa cổ, T đứng sát bên phải chiếc xe 53V8-5071 rồi lấy đoản từ trong túi quần ra đưa vào ổ khóa công tắc xe 53V8-5071 mở khóa. Sau đó T lấy chùm chìa khóa đã chuẩn bị sẵn mở công tắc xe rồi điều kiển xe 53V-5071 băng qua phía đường đối diện đi về hướng Lạc Long Quân – Âu Cơ mà không bị ai phát hiện. Khoảng 15h cùng ngày khi T điều khiển xe 53V8-5071 một mình đến khu vực hẻm 45 Phạm Hùng, Phường 9, Quận 8 để tìm nơi tiêu thụ thì bị Cảnh sát hình sự - CATP nghi vấn kiểm tra bắt giữ giao cho Công an quận TânBình xử lý. Chiếc đoản để trong túi quần đã rơi mất ở địa điểm nào trên đường Tkhông rõ.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Lê Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Kết quả xét nghiệm, T âm tính với Methamphetamine.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 325/HĐĐGTS-TTHS ngày 20/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự: Xe gắn máy02 bánh biển số 53V8-5071 đã qua sử dụng: số khung Y-322196, số máy JA02E- 0321922. Xe đã qua sử dụng, máy còn nguyên thủy, chất lượng máy còn lại khoảng 50%. Giá trị được định: 10.000.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

- 02 chiếc chìa khóa bằng kim loại được bọc một đầu bằng cao su màu đen, trên phần cao su có in logo cùng chữ HONDA.

- 01 điện thoại di động Samsung. – Cơ quan CSĐT-CA quận Tân Bình đã ra lệnh nhập kho vật chứng chuyển cấp tòa xử lý.

Anh Phạm Văn C2 trình bày: Khoảng hơn 14h ngày 14/11/2018, anh C2 điều khiển xe 53V8-5071 một mình đến cửa hàng Gas số 1032 Lạc Long Quân, Phường 8, quận Tân Bình, khi đến nơi anh C2 dừng xe 53V8-5071 trên lề đường trước cửa hàng nhưng không có khóa cổ xe cũng như không có người trông coi rồi đi vào bên trong cửa hàng để làm việc được một lúc thì nhân viên cửa hàng có hỏi anh C2 để xe ở đâu mà không thấy thì anh C2 trả lời là để ở phía trước cửa hàng đồng thời anh Chức đi ra phía trước cửa hàng Gas 1032 Lạc Long Quân, Phường 8, quận Tân Bình để kiểm tra thì phát hiện chiếc xe 53V8-5071 đã bị kẻ gian lấy mất. Bản thân anh C2 cho biết chiếc xe 53V8-5071 đã được thu hồi và anh C2 đã được nhận lại nên anh Chức không yêu cầu Lê Văn T phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bản thân và cam kết không thắc mắc khiếu nại gì về sau.

Tại bản cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 18 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Lê Văn T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

 [2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe gắn máy hiệu Honda Future màu ghi trị giá 10.000.000 đồng của anh Phạm Văn C2. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Bị cáo có nhân thân xấu đã bị kết án chưa được xóa tích mà tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

 [3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

 [4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Phạm Văn C2 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5] Về tang vật vụ án:

- 02 chiếc chìa khóa bằng kim loại được bọc một đầu bằng cao su màu đen, trên phần cao su có in logo cùng chữ HONDA. Xét đây là công cụ, phương tiện phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động Samsung, số imel 356902/08/033338/5 và sim số 8984-04800-0076-39894, xét đây là tài sản của cá nhân bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

 [1] Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo: Lê Văn T 01(Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tínhtừ ngày 15/11/2018.

 [2] Tịch thu và tiêu hủy: 02 chiếc chìa khóa bằng kim loại được bọc một đầu bằng cao su màu đen, trên phần cao su có in logo cùng chữ HONDA; Trả lại cho bị cáo Lê Văn T 01 điện thoại di động Samsung, số imel 356902/08/033338/5 và sim số 8984-04800-0076-39894.

 (Theo phiếu nhập kho vật chứng số 29/PNK ngày 10/01/2019 của Công an quận Tân Bình).

 [3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về