Bản án 239/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 239/2019/HS-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 10/10/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 256/2019/HSST ngày 02 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 168/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị L, sinh năm 1979

HKTT: Khu Vĩnh Kiều 2, phường Đ, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh.

Nơi cư trú: Phòng 104, Toà A2, Chung cư H, phường K, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Nguyễn Văn D (đã chết) và bà Đỗ Thị L, sinh năm 1955;

Chồng: Trần Văn T (đã chết); con: Có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2006;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/9/2019 đến ngày 11/9/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 08/9/2019, tại cửa hàng tạp hoá của Nguyễn Thị L ở phòng 104, Toà A2, Chung cư H, phường K, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh, Đội cảnh sát hình sự Công an thành phố B bắt quả tang Nguyễn Thị L có hành vi bán số lô, số đề cho Nguyễn Đình G, Nguyễn Văn Q và Nguyễn Thế T. Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 quyển sổ gồm 5 tờ ghi các số lô, số đề bán cho khách ngày 08/9/2019, (thu tại bàn trong phòng 109);

- 01 bút mực màu đen mà L dùng để ghi số lô, số đề cho khách

- Số tiền 6.270.000 đồng Quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 09/QĐ-VKSND-TPBN ngày 02/10/ 2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố Nguyễn Thị L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Chiều ngày 08/9/2019 bị cáo ở nhà ghi số lô, số đề cho khách. Sau đó, có một số khách bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ đến mua số lô, số đề tổng cộng là 3.390.000 đồng. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì có 03 thanh niên là G, Q và T đến mua số lô, số đề. G mua số lô 82 và 97 mỗi số 25 điểm (mỗi điểm khách phải trả L 23.000 đồng) và đưa cho L 2.300.000 đồng. Q hỏi mua số đề đặc biệt 20, 34, 60 mỗi số 200.000 đồng; số đề đặc biệt 70 với số tiền 100.000 đồng; số lô 11, 95, 76 và 20 mỗi số 25 điểm và đưa cho L tổng cộng 3.000.000 đồng. T mua số lô 69 và 96 mỗi số 20 điểm; số đề đặc biệt 74 với số tiền 50.000 đồng và đưa cho L tổng cộng 970.000 đồng. L cầm tiền và ghi số lô, số đề như T hỏi mua vào một quyển sổ gồm 06 tờ thì lực lượng công an đến bắt quả tang và thu giữ vật chứng như trên. Ngày 11/9/2019, L đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 3.390.000 đồng.

Bị cáo thừa nhận Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo về tội “đánh bạc” là đúng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên Quyết định truy tố Nguyễn Thị L về tội “Đánh bạc” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị L từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 tháng đến 20 tháng.

- Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định và gia đình thuộc diện cận nghèo nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền dùng vào việc đánh bạc là 9.660.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 01 bút bi màu đen.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định Bị cáo nhất trí với phần luận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng: Đã thực hiện theo quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với không gian, phù hợp với thời gian, địa điểm, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ thấy đã có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 08/9/2019, Nguyễn Thị L có hành vi đánh bạc dưới hình thức bán số lô, số đề cho người khác trên địa bàn thành phố B, tỉnh Bắc Ninh dựa trên kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc ngày 08/9/2019 với tổng số tiền là 9.660.000 đồng. Quyết định truy tố số 09/QĐ-VKSNDTPBN ngày 02/10/2019 đã truy tố bị cáo về tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, nhân thân của bị cáo: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo ăn năn hối cải quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, bố đẻ bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương chiến sĩ giải phóng nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Tại cơ quan điều tra bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc là trái phép, vi phạm pháp luật song vì ham lợi nên ngày 08/9/2019 bị cáo đã có hành vi phạm tội. Tuy nhiên số tiền bị cáo dùng vào việc đánh bạc không lớn. Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt nên không nhất thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ để răn đe và giáo dục bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động chính trong gia đình, nghề nghiệp và thu nhập không ổn định. Gia đình bị cáo thuộc diện cận nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về tang vật chứng:

Đi với 01 bút bi màu đen bị cáo đã sử dụng trong việc thực hiện tội phạm cần tịch thu tiêu hủy.

Số tiền 9.660.000đ thu giữ của bị cáo là tiền bị cáo có được do hành vi thực hiện tội phạm vì vậy cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đi với quyển sổ gồm 06 tờ thu giữ của bị cáo L đã được lưu trong hồ sơ.

[6] Đối với Nguyễn Đình G, Nguyễn Văn Q và Nguyễn Thế T đã mua số lô, số đề của L ngày 08/9/2019, trong quá trình làm việc với Cơ quan Công an thành phố B, G, Q và T đã lợi dụng sơ hở bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh trên địa bàn tuy nhiên Công an phường không cung cấp được đối tượng có tên tuổi khai như trên nên chưa xử lý được, khi nào xác định rõ sẽ xử lý sau.

Đi với ông Nguyễn Xuân Lu, là người cho L thuê phòng 104 tuy nhiên ông Lu không biết việc L ghi số lô, số đề cho khách tại phòng 104 nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với ông Luận là phù hợp.

Đi với những người đã mua số lô, số đề của L ngày 08/9/2019 trước G, Q, T nhưng L không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra đang xác minh làm rõ, khi nào xác định rõ sẽ xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự;

Phạt bị cáo Nguyễn Thị L 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường Đồ, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời gian thử thách nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.

- Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu huỷ: 01 bút bi màu đen .

Tch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 9.660.000đ (Chín triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng). Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/10/2019 giữa Công an thành phố B với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

Đi với quyển sổ gồm 06 tờ thu giữ của bị cáo L đã được lưu trong hồ sơ.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Bị cáo Nguyễn Thị L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 239/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:239/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về