Bản án 24/2017/HS-ST ngày 06/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 24/2017/HS-ST NGÀY 06/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 23/2017/HSST ngày 13/11/2017 đối với bị cáo sau đây:

Họ và tên: Giàng A D, sinh năm 1983 tại SM, Sơn La; Trú quán: Bản PH, xã HM, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 0/12; Nghề nghiệp: trồng trọt; Chức vụ, Đảng phái, Đoàn thể: Không; Con ông: Giàng Chá Ly - SN 1960 và bà Sộng Thị Pạ - SN 1965; Vợ Vàng Thị Dnh - SN 1984, có 02 người con lớn nhất sinh 2007 nhỏ nhất sinh năm 2008.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/8/2017 đến nay có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 7 giờ 40 phút, ngày 09/8/2017 Giàng A D đi từ nhà ở bản PH, xã HM lên nương để phun thuốc diệt cỏ, trên đường đi D gặp 3 người phụ nữ không quen biết, D hỏi và mua được 01 gói ma túy giá 20.000 đồng, D cất giấu trong túi áo đang mặc mục đích để về sử dụng. Đến khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày D đang trên đường đi thì bị Tổ công tác Công an huyện Sông Mã và ban Công an xã HM, Sông Mã làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Ngày 09/8/2017 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong xác định trọng lượng vật chứng, kết quả: Số chất bột màu trắng ngà trong gói nilon màu trắng thu của D có trọng lượng 0,11 gam lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu D (BL 09)

Kết luận giám định số 815/KLMT ngày 11/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D là chất ma túy; loại chất Herôin; trọng lượng mẫu gửi giám định là 0,11 gam".

Cáo trạng số: 135/KSĐT – MT ngày 13/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, truy tố bị cáo Giàng A D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Giàng A D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b khoản 1 điều 2 của Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội 14 về việc thi hành bộ luật Hình sự số 100/2015/QH 13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14; khoản 3 điều 7; điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Giàng A D từ 22 đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng: áp dụng điểm a khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 03 mảnh túi nilon. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Nguồn gốc chất ma túy bị cáo khai mua của một phụ nữ dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ tại khu vực bản PH, xã HM, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng đã truy tố và quan điểm luận tội của vị đại diện viện kiểm sát, không có tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt phần nào.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

Xét lời khai của bị cáo hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 07 giờ  50 phút ngày 09/8/2017; biên bản niêm phong vật chứng; biên bản xác định trọng lượng; kết luận giám định, lời khai người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên xét thấy đủ căn cứ kết luận bị cáo Giàng A D, có hành vi mua 01 gói Hêrôin với giá 20.000đồng nhằm mục đích sử dụng đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự có mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù.

Xét tính chất, mức độ, cảu hành vi phạm tội: là nghiêm trọng, gây mất trật tự trị an tại địa phương, do đó việc đưa bị cáo ra xét xử trước pháp luật là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên khi lượng hình cần áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội 14 về việc thi hành bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14; quy định tại khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự 1999 có hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy khoản 1 điều 249 BLHS năm 2015 có lợi hơn cho người phạm tội nên khi quyết định hình phạt cần được áp dụng đối với bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nhận tội ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền xét thấy bị cáo không có khả năng thi hành nên không áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

Nguồn gốc chất ma túy bị cáo khai mua của một phụ nữ dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ tại khu vực bản PH, xã HM, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, ngoài lời khai của bị cáo không còn căn cứ khác nên không mở rộng điều tra vụ án.

Vật chứng của vụ án: 0,11 gam chất ma túy cơ quan giám định không hoàn lại mẫu nên nên thuộc quyền xử lý của cơ quan giám định, các vật chứng khác không có gía trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định chung.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Giàng A D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b khoản 1 điều 2 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 điều 7, điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Giàng A D 22 (hai mươi hai) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 09/8/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2 . Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 điều 76 bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư mặt trước ghi vật chứng vụ: Giàng A D- SN 1983. Chỗ ở Bản PH, xã HM, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Hành vi: Tàng trữ trái phép chât ma túy, 01 mảnh túi nilon màu xanh, 01 mảnh túi nilon màu trắng.

Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 30/10/2017 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 điều 21, điểm a khoản 1 điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (06/12/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2017/HS-ST ngày 06/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về