Bản án 246/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 246/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 784/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 272/2019/QĐXX-ST ngày 01 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 222/2019/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Bùi Văn C; địa chỉ: Thôn 6, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có mặt đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị L; địa chỉ: Thôn 6, xã H, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 20/8/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, anh Bùi Văn C (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Anh Bùi Văn C và chị Nguyễn Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 02/10/1996 . Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, trong sinh hoạt và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn, vợ chồng anh hiện đã sống ly thân nhau. Nay, anh C nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên anh C yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn chị Nguyễn Thị L.

Về con chung: Anh Bùi Văn C khai: Anh và chị Nguyễn Thị L sinh được 03 con là Bùi Trọng Đ, sinh ngày 13/5/1996; Bùi Đ P, sinh ngày 24/12/1997 và Bùi P Đ sinh ngày 22/12/2013. Trường hợp ly hôn, anh C và chị L thống nhất thỏa thuận chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Bùi P Đ cho đến khi con chung tên Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Con tên Bùi Trọng Đ và Bùi Đ P hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Anh C và chị L thống nhất thỏa thuận mỗi tháng anh C cấp dưỡng nuôi con chung với chị L 3 triệu đồng kể từ tháng 12 năm 2019 đến khi con Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Anh Bùi Văn C khai: Anh và chị Nguyễn Thị L có tài sản chung nhưng thống nhất tự phân chia, nếu không xong sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 08 tháng 10 năm 2019 và lời trình khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị L (bị đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L thừa nhận lời khai của anh C về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn, nguyên nhân và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay anh C xin ly hôn, quan điểm của chị nhận thấy không còn tình cảm với anh C nhưng không đồng ý ly hôn vì muốn vợ chồng cùng nhau nuôi dạy con cái trưởng thành.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị L khai chị và anh Bùi Văn C có 03 con chung là Bùi Trọng Đ, sinh ngày 13/5/1996; Bùi Đ P, sinh ngày 24/12/1997 và Bùi P Đ sinh ngày 22/12/2013. Trường hợp ly hôn, chị L và anh C thống nhất thỏa thuận chị L được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Bùi P Đ cho đến khi con chung tên Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Con tên Bùi Trọng Đ và Bùi Đ P hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L và anh C thống nhất thỏa thuận mỗi tháng anh C cấp dưỡng nuôi con chung với chị L 3.000.000 đồng kể từ tháng 12 năm 2019 đến khi con Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị L khai: Chị và anh Bùi Văn C có tài sản chung nhưng thống nhất tự phân chia, nếu không xong sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Bùi Văn C và chị Nguyễn Thị L.

Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa Anh Bùi Văn C và chị Nguyễn Thị L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình xử cho anh C, chị L được ly hôn. Về con chung: Anh Bùi Văn C và chị Nguyễn Thị L có 03 con chung là Bùi Trọng Đ, sinh ngày 13/5/1996; Bùi Đ P, sinh ngày 24/12/1997 và Bùi P Đ sinh ngày 22/12/2013. Khi ly hôn, chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Bùi P Đ sinh ngày 22/12/2013, anh C đồng ý để chị L trực tiếp nuôi dưỡng con Bùi P Đ. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện từ khi sống ly thân đến nay, chị L là người trực tiếp nuỗi dưỡng con chung tên Bùi P Đ và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình giao cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung Bùi P Đ sinh ngày 22/12/2013 cho đến khi con Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Con tên Bùi Trọng Đ và Bùi Đ P hiện đã thành niên và có khả năng lao động, anh C, chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L và anh C thống nhất thỏa thuận anh C có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung với chị Nguyễn Thị L mỗi tháng 3.000.000 (Ba triệu đồng) kể từ tháng 12 năm 2019 cho đến khi con Đào P Đ chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Xét việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện và không trái pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận. Về tài sản chung, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đề nghị Hội đồng xét xử tuyên anh Bùi Văn C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là anh Bùi Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là chị Nguyễn Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng chị L vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Bùi Văn C và chị Nguyễn Thị L.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa Anh Bùi Văn C và chị Nguyễn Thị L được xác lập vào năm 1996 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình, địa P khuyên giải nhưng không thành. Do mâu thuẫn nên chị L và anh C hiện đã sống ly thân nhau. Anh C nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn chị L. Quan điểm của chị L tuy không còn tình cảm với anh C nhưng không đồng ý ly hôn vì muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con cái trưởng thành. Tuy nhiên, tại phiên tòa, chị L đã được triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa anh anh C và chị L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho anh C và chị L được ly hôn.

[3] Về con chung: Anh Bùi Văn C và chị Nguyễn Thị L có 03 con chung là Bùi Trọng Đ, sinh ngày 13/5/1996; Bùi Đ P, sinh ngày 24/12/1997 và Bùi P Đ sinh ngày 22/12/2013. Trường hợp ly hôn, chị L và anh C thống nhất thỏa thuận chị L được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Bùi P Đ cho đến khi con chung tên Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện từ khi sống ly thân đến nay, chị L là người trực tiếp nuỗi dưỡng con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Vì vậy giao cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Bùi P Đ sinh ngày 22/12/2013 cho đến khi con tên Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Con chung là Bùi Trọng Đ và Bùi Đ P hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên Tòa án không đề cập giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Tại biên bản hòa giải ngày 30/10/2019, anh C và chị L thống nhất thỏa thuận mỗi tháng anh C cấp dưỡng nuôi con chung với chị L 3.000.000 (Ba triệu đồng) kể từ tháng 12 năm 2019 đến khi con Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Xét việc thỏa thuận nêu trên của các đương sự là tự nguyện và không trái pháp luật nên tuyên anh Bùi Văn C phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung với chị Nguyễn Thị L mỗi tháng 3.000.000 (Ba triệu đồng) kể từ tháng 12 năm 2019 cho đến khi con tên Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung: Anh C và chị L thống nhất khai có tài sản chung, nhưng thống nhất tự phân chia, nếu không xong sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau nên Hội đồng xét xử không đề câp giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì anh Bùi Văn C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí về cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Anh Bùi Văn C và chị Nguyễn Thị L được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238; Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa Anh Bùi Văn C và chị Nguyễn Thị L.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Bùi P Đ, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2013 cho đến khi con Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3.Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Bùi Văn C có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung với chị Nguyễn Thị L mỗi tháng 3.000.000 (Ba triệu đồng) kể từ tháng 12 năm 2019 cho đến khi con tên Bùi P Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Anh Bùi Văn C phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm và 150.000 (Một trăm năm mươi nghìn) đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng anh C đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003061 ngày 03 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Anh Bùi Văn C còn phải nộp 150.000 (Một trăm năm mươi nghìn) đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật.

Anh Bùi Văn C và chị Nguyễn Thị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 246/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:246/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về