Bản án 251/2017/HSPT ngày 01/12/2017 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 251/2017/HSPT NGÀY 01/12/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 01/12/2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 227/2017/HSPT ngày 01/11/2017 đối với bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C do có kháng cáo của người bị hại Trần Lê Cao T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2017/HSST ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo bị kháng cáo: NGUYỄN NGUYÊN VIỆT C (R), sinh ngày 12/12/1986 tại Quảng Nam; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Số 15 đường  Y tháng X; tổ 17, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở: Số A đường L, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng; Số CMND: 205264abc; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Không (buôn bán); Con ông Nguyễn Tiến D (s) và bà Nguyễn Thị Hồng T (s); Có vợ là Nguyễn Thị Ngọc H và có 01 con sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo bị bắt giam ngày 22/8/2017. Có mặt.

* Người bị hại: Anh Trần Lê Cao T , sinh ngày 17/6/1992; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Khối A, thị trấn N , huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

* Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị hại: Ông Phạm Lý H – Luật sư VPLS P.C thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng bảo vệ theo yêu cầu của người bị hại. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 09/12/2016, anh Lâm Trần H từ Quảng Nam ra thành phố Đà Nẵng chơi và mời một số bạn, gồm: Anh H, Nguyễn Nguyên Việt C, anh Lê Toàn N, anh Trần Lê Cao T, chị Nguyễn Thị Phương N đến uống bia tại quán B.T thuộc phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng do anh Nguyễn Thái T làm chủ.

Trong quá trình uống bia, đến khoảng 23 giờ cùng ngày, giữa C và anh T thường xuyên cãi nhau dẫn đến mâu thuẫn. Cho rằng anh T nhỏ tuổi mà có thái độ thiếu tôn trọng, cãi bướng nên C dùng tay phải cầm ly bia đang uống đánh vào vùng mặt của anh T một cái, C bị quá đà ngã xuống đất, anh T đè lên người C và lấy một cái chén bị vỡ trên bàn đánh vào vùng đầu, mặt C làm cả hai đều bị thương tích. Mọi người can ngăn, anh N chở C đến Bệnh viện H, anh H chở Thượng đến Bệnh viện Đ cấp cứu vết thương.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 19 ngày 18/01/2017 của Trung tâm pháp y – Sở y tế thành phố Đà Nẵng kết luận anh Trần Lê Cao T bị chấn thương mắt trái vỡ phức tạp nhãn cầu, thị lực mắt trái ST (-). Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 49%.

Tại Bản án sơ thẩm số 84/2017/HSST ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân quậnHải Châu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Áp dụng Khoản 3 Điều 104; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Điều 47BLHS.

Xử phạt: Nguyễn Nguyên Việt C 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thờigian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 22/8/2017.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, án phí vàquyền kháng cáo bản án.

Ngày 09/10/2017, người bị hại Trần Lê Cao T có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C với mức án 48 tháng tù giam là quá nhẹ. Bởi hành vi của bị cáo có tính côn đồ, hung hãn, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà gây thương tích cho người bị hại với tỷ lệ là 49%, làm bị hại hư một con mắt, tàn tật đến suốt đời, không có khả năng lao động chuyên môn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người bị hại. Do đó đề nghị xét xử theo trình tự phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của người bị hại Trần Lê Cao T có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ. Xét nội dung đơn kháng cáo của người bị hại thì thấy Bản án sơ thẩm số 84/2017/HSST ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu đã xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội. Bản án sơ thẩm cũng đã xemxét vai trò, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình, xử phạt bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C 04 năm tù là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của người bị hại và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Nguyên Việt Cg cũng thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự là đúng tội, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người bị hại, giữ nguyên mức hình phạt mà án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.

Người bị hại Trần Lê Cao T trong phần thủ tục và phần xét hỏi vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C. Tuy nhiên trong phần tranh luận, người bị hại và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét kháng cáo của người bị hại về việc tăng hình phạt đối với bị cáo nữa, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sửa bản án sơ thẩm, không buộc người bị hại phải chịu số tiền án phí dân sự 1.700.000 đồng.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, bị hại, quan điểm của Luật sư.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, trong phần thủ tục và phần xét hỏi, người bị hại Trần Lê Cao T giữ nguyên kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C và đề nghị sửa án sơ thẩm về phần án phí dân sự đối với người bị hại, không buộc người bị hại phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm 1.700.000 đồng. Vì mức án mà bản án sơ thẩm xử bị cáo chưa nghiêm và theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, người bị hại không phải chịu số tiền án phí dân sự nói trên.

Tuy nhiên đến phần tranh luận, người bị hại và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét phần kháng cáo của người bị hại về việc đề nghị xử tăng hình phạt đối với bị cáo nữa, người bị hại rút kháng cáo về phần này, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sửa lại án sơ thẩm theo hướng không buộc người bị hại phải chịu 1.700.000 đông án phí dân sự sơ thẩm. Xét thấy việc người bị hại rút kháng cáo về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C là tự nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 238 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án đối với bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C.

[2] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bản án sơ thẩm buộc người bị hại Trần Lê Cao T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 1.700.000 đồng về phần yêu cầu bồi thường không được chấp nhận đối với số tiền 34.000.000 đồng là không phù hợp với quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, vì đây là yêu cầu bồi thường về sức khỏe nên người bị hại được miễn án phí. Do đó, mặc dù người bị hại không có kháng cáo và không có kháng nghị về phần này nhưng theo nguyên tắc có lợi cho người bị hại, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự sửa án sơ thẩm về phần này, không buộc người bị hại phải chịu 1.700.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C không phải chịu.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án đối với bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C.

2. Sửa án sơ thẩm về phần án phí dân sự sơ thẩm đối với người bị hại Trần Lê Cao T.

Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên người bị hại Trần Lê Cao T không phải chịu 1.700.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3. Bị cáo Nguyễn Nguyên Việt C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 251/2017/HSPT ngày 01/12/2017 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:251/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về