Bản án 25/2018/DS-ST ngày 17/09/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 25/2018/DS-ST NGÀY 17/09/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, thành phố Cần Thơ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 27/2017/TLST-DS ngày 27 tháng 02 năm 2017 về việc tranh chấp Hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 68/2018/QĐST-DS ngày 25 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự :

Nguyên đơn: ông Huỳnh Văn T1, sinh năm 1941

Địa chỉ: ấp T, xã L, huyện P, thành phố Cần Thơ – Có mặt.

Bị đơn: 1. ông Huỳnh Văn N, sinh năm 1949

2. bà Huỳnh Thị T2, sinh năm 1952

Địa chỉ: ấp T, xã L, huyện P, thành phố Cần Thơ – Có mặt.

Người làm chứng:

1. bà Võ Ngọc P, sinh năm 1979

Địa chỉ: X khu phố Y, phường H, quận Z, thành phố Hồ Chí Minh – Vắngmặt.

2. bà Trần Kim Q, sinh năm 1968

Địa chỉ: ấp T2, xã L, huyện P, thành phố Cần Thơ – Vắng mặt.

3. bà Trần Thị H, sinh N 1950

Địa chỉ: ấp T2, xã L, huyện P, thành phố Cần Thơ – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn – ông Huỳnh Văn T1 trình bày: ngày 19/6/2011 ông chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Võ Ngọc P, khi bà P giao tiền cho ông thì vợ chồng em trai của ông là Huỳnh Văn N, bà Huỳnh Thị T2 mượn số tiền 50.000.000 đồng. Khoảng một năm sau ông đòi lại tiền nhưng ông N, bà T2 không nói gì và cũng không trả. Tháng 02/2012 ông gởi đơn yêu cầu đến Tổ hòa giải ấp T, sau đó gởi Ủy ban nhân dân xã L nhưng không được giải quyết. Nay ông khởi kiện yêu cầu ông N, bà T2 trả cho ông số tiền 50.000.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 19/6/2011.

Phía bị đơn – ông Huỳnh Văn N trình bày: năm 2011 ông Huỳnh Văn T1 chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Võ Ngọc P, do đất của ông T1 nằm ở giữa, giáp ranh đất của ông mới đến sông, bà P muốn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông để thửa đất thẳng đến mé sông. Ông T1 thỏa thuận với ông chuyển nhượng đất cho bà P, khi bà P giao tiền cọc tại nhà ông thì ông N đưa cho ông 50.000.000 đồng tiền đặt cọc mua phần đất của ông. Sau đó bà P, ông T1 không làm hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng của ông nhưng lại bơm cát san lấp mặt bằng, làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lấn qua phần đất của ông. Ông không có mượn tiền của ông T1 nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn – bà Huỳnh Thị T2 trình bày: thống nhất ý kiến của ông N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Theo đơn khởi kiện ngày 28/9/2016 ông Huỳnh Văn T1 yêu cầu ông Huỳnh Văn N, bà Huỳnh Thị T2 trả số tiền đã mượn là 50.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh. Tòa án nhân dân huyện P thụ lý giải quyết theo thẩm quyền vụ án tranh chấp Hợp đồng vay tài sản.

 [2] Ông T1 cho rằng năm 2011 ông bán đất được 01 tỷ đồng, ông N là em của ông có mượn số tiền 50.000.000 đồng, ông đã đòi nhiều lần nhưng đến nay chưa trả tiền cho ông. Phía ông N không thừa nhận việc mượn tiền, ông N cho rằng hai bên có thỏa thuận mua bán một phần đất diện tích 0,5 công nên ông N có nhận 50.000.000 đồng là tiền đặt cọc, hiện hai bên không tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì ông T1 mất tiền cọc. Tuy nhiên, việc ông N nhận tiền không lập thành biên nhận, không có giấy tờ chứng minh giao dịch vay mượn hay đặt cọc.

 [3] Những người làm chứng Trần Kim Q, Trần Thị H khai biết việc ông T1 đưa 50.000.000 đồng cho ông N là tiền đặt cọc bán đất của ông N. Bị đơn cũng chỉ thừa nhận việc nhận tiền cọc bán đất. Người làm chứng Võ Ngọc P trực tiếpđưa tiền cho ông T1 để đưa lại cho ông N hiện không rõ địa chỉ cư trú nên không tiến hành lấy lời khai được. Do đó, đối với giao dịch nhận tiền đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất mặc dù không có giấy tờ chứng minh nhưng ông N thừa nhận, trong trường hợp các bên có tranh chấp về hợp đồng đặt cọc thì có quyền khởi kiện thành vụ án khác.

 [4] Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T1 yêu cầu ông N trả tiền vay 50.000.000 đồng nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh (như biên nhận, hợp đồng vay, giấy cam kết trả nợ…), ông N cũng không thừa nhận việc vay mượn tiền. Ông T1 nêu có gởi đơn yêu cầu đến Tổ hòa giải ấp T và Ủy ban nhân dân xã L vào tháng 02/2012 nhưng không có biên bản giải quyết. Do nguyên đơn khởi kiện nhưng không có cơ sở xác định việc bị đơn vay mượn tiền nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

 [5] Về án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn chịu án phí 5% tương ứng yêu cầu không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T1 về việc yêu cầu ông Huỳnh Văn N, bà Huỳnh Thị T2 trả số tiền 50.000.000 đồng.

Án phí dân sự sơ thẩm: nguyên đơn nộp 2.500.000 đồng, khấu trừ 2.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí nộp theo biên lai số 004793 ngày 27/02/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, nguyên đơn phải nộp thêm 500.000 đồng.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/DS-ST ngày 17/09/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:25/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phong Điền - Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về