Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 05/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 25/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 115/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Nh, sinh năm: 1987. Cư trú tại: ấp 8, xã Tr, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Võ Văn T, sinh năm: 1985. Cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 7 năm 2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Nh trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Nh và anh Võ Văn T tự nguyện chung sống với nhau vào tháng 4/2005, nhưng đến ngày 27/02/2006 mới đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã An Thạnh 1, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, đến tháng 01/2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng ý kiến trong cuộc sống, nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, chị Nh và anh T sống ly thân từ tháng 5/2014 cho đến nay. Nay chị Nh xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn, nên chị Nh yêu cầu ly hôn với anh T; Về con chung: Trong quá trình chung sống chị Nh và anh T có 01 người con chung tên là Võ Quốc Th, sinh ngày 31/01/2006. Hiện nay, Th đang sống chung với anh T. Chị Nh yêu cầu giao con chung là Võ Quốc Th, sinh ngày 31/01/2006 cho anh T nuôi dưỡng đến khi thành niên, chị Nh sẽ không cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nh không có yêu cầu gì.

Bị đơn là anh Võ Văn T đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải, anh T không gửi văn bản ghi ý kiến của mình cũng như không đến tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh T.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Trong vụ án này Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn đã chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng đối với bị đơn không chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là xử cho nguyên đơn được ly hôn với bị đơn, xử giao cháu Võ Quốc Th, sinh ngày 31/01/2006 cho anh T nuôi dưỡng đến khi thành niên; Về tài sản chung và nợ chung, không có đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa. Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

* Về thủ tục tố tụng:

Anh Võ Văn T là bị đơn trong vụ án, anh T đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

Đi với nguyên đơn Nguyễn Thị Nh, đã có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị Nh.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Nh và anh Võ Văn T là hôn nhân hợp pháp. Sau thời gian chung sống hạnh phúc, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống, tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ tháng 5/2014, hai bên đã sống ly thân. Từ khi ly thân cho đến nay anh chị không có gặp nhau để bàn bạc về việc hôn nhân của anh chị nhằm tạo điều kiện chung sống lại với nhau. Tại đơn khởi kiện ngày 23 tháng 7 năm 2019, chị Nh yêu cầu được ly hôn với anh T là hoàn toàn có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, nên cần chấp nhận yêu cầu của chị Nh. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Nh được ly hôn với anh T.

[2.2] Về con chung: Trong thời gian chung sống chị Nh và anh T có 01 người con chung tên là Võ Quốc Th, sinh ngày 31/01/2006. Tại đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 7 năm 2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Nh yêu cầu giao con chung là Võ Quốc Th, sinh ngày 31/01/2006 cho anh T nuôi dưỡng đến khi thành niên, chị Nh sẽ không cấp dưỡng nuôi con. Đối với bị đơn anh Võ Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về nội dung yêu cầu của chị Nh, nhưng anh T không có văn bản trả lời về nội dung yêu cầu của chị Nh. Hội đồng xét xử xét thấy: Từ khi chị Nh và anh T sống ly thân cho đến nay thì cháu Th sống chung với anh T. Đồng thời, tại biên bản lấy lời khai ngày 18 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung thì cháu Th có nguyện vọng chung sống với anh T. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Võ Quốc Th, sinh ngày 31/01/2006 cho anh T nuôi dưỡng đến khi thành niên, do anh T không yêu cầu chị Nh phải cấp dưỡng nuôi con, nên chị Nh không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cho chị Nh, không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nh không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4.4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nh phải chịu nghĩa vụ án phí đối với vụ án hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng; Anh T không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Ngoài ra, căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 17 Luật phí và Lệ phí; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Nh.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Nh được ly hôn với anh Võ Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Võ Quốc Th, sinh ngày 31/01/2006 cho anh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cho đến khi cháu Th thành niên. Chị Nh không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cho chị Nh, không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nh không có yêu cầu gì, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Nh phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình, nhưng chị Nh được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006147 ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị Nh đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm; Anh Võ Văn T không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Nh và anh Võ Văn T có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 05/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:25/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về