Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 17/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 25/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 21/2019/TLST-HNGĐ, ngày 15 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2019/QĐXX-ST ngày 02 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Tạ Thị H, sinh năm 1978

Địa chỉ: Thôn 5, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước

- Bị đơn: Lý Văn H, sinh năm 1978

Địa chỉ: Thôn 3, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

(Nguyên đơn có mặt; bị đơn có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 27/12/2018 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Tạ Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lý Văn H tự nguyện tìm hiểu và chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2009 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn ngày 15/7/2009. Quá trình chung sống hạnh phúc nhưng tới năm 2016 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh H thường xuyên đi đánh bài và có quan hệ với người phụ nữ khác, từ đó dẫn đến vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 1/2018, không ai còn quan tâm đến ai. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Hòa để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng chị không có con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình Tòa án thụ lý vụ án, nguyên đơn chị H cung cấp các tài liệu, chứng cứ gồm: Bản gốc đăng ký kết hôn của UBND xã H ngày 15/7/2009; bản sao chứng minh nhân dân, bản sao hộ khẩu. Ngoài ra, chị H không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì.

Bị đơn anh Lý Văn H trình bày:

Về quan hệ hôn nhận: Anh thống nhất với chị H về thời gian chung sống và đăng ký kết hôn. Về mâu thuẫn giữa vợ chồng thì do anh hay đi làm ăn xa, khi anh điện về nhà thì chị H chặn số và mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hiện đã sống ly thân với nhau, tuy nhiên trước yêu cầu ly hôn của chị H thì anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung: Về nợ chung không có.

Về tài sản chung: Anh yêu cầu chị H phải trả 100.000.000đ là công lao anh bỏ ra để mua giống cây cao su, chăm sóc cây trên diện tích đất 06 sào của chị H, diện tích đất tọa lạc tại thôn 5, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng có quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền; Tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách tố tụng của các đương sự theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về yêu cầu chia tài sản của anh H, đề nghị tách ra giải quyết thành vụ án khác khi có yêu cầu.

Về án phí: Đề nghị giải quyết theo quy định.

Các đườn sự không thống nhất được với nhau về hướng giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào lời khai của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Tạ Thị H và anh Lý Văn H tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn năm 2009 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Điều này phù hợp với bản gốc giấy chứng nhận kết hôn số 13 ngày 15/7/2009 đã được chị H giao nộp hợp pháp. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh H là hợp pháp.

Về mâu thuẫn gia đình: Theo lời khai của chị H trong quá trình mâu thuẫn chị Hư và anh H có nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn phát sinh nhiều lần và thường xuyên bắt đầu từ năm 2016 đến nay, anh H thường xuyên tụ tập đi đánh bài và có quan hệ với người phụ nữ khác, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 01/2018 cho đến nay, qúa trình sống ly thân không bên nào quan tâm hỏi han bên nào. Như vậy, mâu thuẫn gia đình của chị H và anh H là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận nguyện vọng muốn ly hôn của chị Hương.

[2] Về con chung: Vợ chồng không có.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Hương không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, anh H có yêu cầu chị H phải có nghĩa vụ trả cho anh 100.000.000đ tiền mua giống, chăm sóc cao su trên diện tích đất 06 sào của chị H. Nhưng khi Tòa án ra thông báo yêu cầu anh H tiến hành làm các thủ tục yêu cầu phản tố thì anh H không thực hiện. Do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét và cần tách phần yêu cầu chia tài sản ra thành vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

[4] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự buộc nguyên đơn chị H phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo luật định.

[5] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51; Điều 55; Điều 81; Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tạ Thị H về việc ly hôn. Chị Tạ Thị H được ly hôn với anh Lý Văn H.

[2] Về con chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Về nợ chung, tài sản chung: Tách yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung thành vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

[4] Về án phí: Nguyên đơn chị H phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp trước là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0009131 ngày 15/01/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

[5] Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 17/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:25/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về