Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 25/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 122/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2019 (Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11/9/2019), giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị M, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn Trì H, xã K, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Đình H, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn Trì H, xã K, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Trần Thị M trình bày:

Chị Trần Thị M và anh Nguyễn Đình H kết hôn với nhau tại Uỷ ban nhân dân xã K, huyện Tiên Lãng từ ngày 07/11/2008. Trong quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận được khoảng 09 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, do anh H ham chơi cờ bạc làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, mặt khác anh H còn nghi ngờ chị M có quan hệ ngoại tình khiến vợ chồng luôn căng thẳng, bất hoà. Do mâu thuẫn căng thẳng nên từ tháng 7 năm 2018, chị M bỏ về nhà mẹ đẻ, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau. Nay nhận thấy vợ chồng không thể đoàn tụ, chị M yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về con chung: Anh chị có 02 con là Nguyễn Đình M, sinh ngày 12/12/2009 và Nguyễn Đình Đ, sinh ngày 04/5/2014. Khi ly hôn, chị M yêu cầu Tòa án giao con Nguyễn Đình Đ cho chị trực tiếp nuôi dưỡng; giao con Nguyễn Đình M cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng cho con, chị xin tự giải quyết với anh H.

Về tài sản chung: Anh chị xin tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và biên bản hòa giải, bị đơn là anh Nguyễn Đình H trình bày:

Về thời gian, điều kiện vợ chồng kết hôn như chị M trình bày là đúng thực tế. Trong quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến tháng 5 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn do trong thời gian anh H ở nước ngoài, chị M ở nhà có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác. Anh đã yêu cầu chị M chấm dứt quan hệ đó nhưng chị M không đồng ý và tự ý đưa con về nhà mẹ đẻ, nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 7 năm 2018 đến nay. Tháng 3 năm 2019, anh có tìm gặp chị M và động viên chị về đoàn tụ nhưng chị M không đồng ý và viết đơn ly hôn yêu cầu anh ký đơn. Nay chị M yêu cầu ly hôn anh không đồng ý ly hôn vì các con còn nhỏ.

Về con chung, vợ chồng có 02 con chung như chị M trình bày là đúng. Khi ly hôn, anh yêu cầu Tòa án giao cả hai con cho anh nuôi dưỡng vì chị M bạo hành con. Việc cấp dưỡng cho con, anh xin tự giải quyết với chị M. Về tài sản chung, anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của các đương sự như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về: Thẩm quyền giải quyết; xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách của những người tham gia tố tụng; thu thập chứng cứ; xét xử vắng mặt bị đơn và các hoạt động tố tụng khác. Trình tự, thủ tục hỏi, tranh luận tại phiên tòa đã được Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định tại Chương XIV của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành nghiêm chỉnh yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án; bị đơn không tham gia phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M: Xử cho chị M được ly hôn anh H. Về con chung: Giao cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Đình Đ, sinh ngày 04/5/2014; anh H trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Đình M, sinh ngày 12/12/2009. Việc cấp dưỡng cho con anh chị xin tự giải quyết. Về tài sản chung, anh chị xin tự thỏa thuận với nhau nên không đặt ra để giải quyết. Chị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Chị Trần Thị M khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Đình H, cư trú tại: Thôn Trì H, xã K, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Do đó, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng.

[2] Bị đơn là anh Nguyễn Đình H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh H.

- Về nội dung:

[3] Quan hệ vợ chồng giữa chị Trần Thị M và anh Nguyễn Đình H được xác lập từ ngày 07/11/2008 là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận được đến khoảng năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp; mặt khác do anh H nghi ngờ chị M có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc. Từ tháng 7 năm 2018 đến nay, do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nên chị M đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng ly thân và không quan tâm đến nhau. Nay chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn nhưng anh H không đồng ý. Căn cứ vào lời khai của các đương sự, lời khai của người làm chứng, có đủ cơ sở kết luận: Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh H, chị M phát sinh là do tính tình vợ chồng không hợp; mặt khác khác do anh H nghi ngờ chị M có quan hệ ngoại tình nên anh chị thường xuyên căng thẳng, bất hoà; anh chị sống ly thân mỗi người ở một nơi đến nay đã hơn 01 năm và không quan tâm đến nhau. Từ những phân tích trên cho thấy, tình cảm vợ chồng không còn, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M, cho chị được ly hôn anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Anh chị có 02 con là Nguyễn Đình M, sinh ngày 12/12/2009 và Nguyễn Đình Đ, sinh ngày 04/5/2014. Xét yêu cầu nuôi con của các đương sự, Hội đồng xét xử cho rằng, mặc dù anh H khai chị M có hành vi bạo lực đối với con, tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của chị M, lời khai của người làm chứng thì không có căn cứ xác định chị M thường xuyên có hành vi bạo lực đối với con. Hiện nay, anh H và chị M đều có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M: Giao con Nguyễn Đình Đ cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Đình M cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng cho con, anh H và chị M xin tự giải quyết nên để cho anh chị tự cấp dưỡng cho con là phù hợp.

[5] Về tài sản chung: Anh chị xin tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[6] Về án phí: Chị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án,

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị M được ly hôn anh Nguyễn Đình H.

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị M trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Đình Đ, sinh ngày 04/5/2014; anh Nguyễn Đình H trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Đình M, sinh ngày 12/12/2009. Thời hạn nuôi con tính từ ngày 25/9/2019 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng cho con anh chị tự giải quyết với nhau.

Không ai được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

4. Về án phí: Chị Trần Thị M phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị M đã nộp 300.000 đồng, tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0011519 ngày 06/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng. Chị M đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

 Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, thông báo./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:25/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về