Bản án 25/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 25/2019/HS-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Cao C sinh năm 1992, tại Ninh Bình. Nơi cư trú: Số nhà B, ngõ M, đường THS, phố PT, phường PK, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Ngọc M và bà Dương Thị N; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án:

- Bản án số 109/2015/HSST, ngày 10/11/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 07 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, ra trại ngày 29/01/2016.

- Bản án số 03/2017/HSST, ngày 18/01/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 18 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, ra trại ngày 08/02/2018.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 23/01/2015, Công an thành phố Ninh Bình xử lý hành chính phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Ngày 18/6/2015, Công an phường TT, thành phố Ninh Bình xử phạt hành chính phạt tiền 700.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/12/2018 đến ngày 21/12/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay. “Có mặt”.

- Bị hại: Anh NTD sinh năm 1993; Nơi cư trú: Đội M, xóm PT, thôn BC, xã NK, huyện HL, tỉnh Ninh Bình. “Vắng mặt”.

- Nguyên đơn dân sự: Anh NTS sinh năm 1968; Nơi cư trú Đội M, xóm PT, thôn BC, xã NK, huyện HL, tỉnh Ninh Bình. “Vắng mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Anh H sinh năm 1990; Nơi cư trú: Phố PT, phường NT, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. “Vắng mặt”.

- Người làm chứng: Ông Trần Ngọc M, anh Đàm Phú G, anh Nguyễn Ngọc K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ 30 ngày 30/6/2018, Trần Cao C nhắn tin qua tài khoản facebook cho bạn là anh NTD sinh năm 1993, ở thôn BC, xã NK, huyện HL, tỉnh Ninh Bình với nội dung mượn xe mô tô của anh D để giải quyết việc cá nhân, anh D đồng ý cho C mượn xe khoảng 30 phút. Khoảng 13 giờ ngày 30/6/2018, anh NTD lấy xe mô tô Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2 - 444.94 của bố mình là ông NTS sinh năm 1968, trú tại xóm PT, thôn BC, xã NK, huyện HL, tỉnh Ninh Bình rồi mang đến khách sạn BA thuộc phường ĐT, thành phố Ninh Bình nơi C đang thuê phòng nghỉ để giao xe cho C. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, thấy C không trả xe nên anh D gọi điện và nhắn tin cho C nhưng không liên lạc được. Ngày 01/7/2018, do không có tiền tiêu xài cá nhân nên C đã nảy sinh ý định bán chiếc xe mượn của anh D. C nhắn tin cho anh D nói dối xe bị Cảnh sát cơ động bắt và bảo D mang giấy tờ xe đến mục đích để có giấy tờ xe bán được giá cao. Do tin rằng xe đã bị Cảnh sát cơ động bắt nên khoảng 16 giờ cùng ngày anh D đã mang giấy tờ xe gồm 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe đến khách sạn BA giao cho C. Sau khi giao giấy tờ xe cho C, anh D liên tục điện thoại cho C để đòi xe nhưng C nói dối không xin được xe. Khoảng 15 giờ ngày 05/7/2018, Trần Cao C gọi điện cho anh Vũ Anh H sinh năm 1990, trú tại phố PT, phường NT, thành phố Ninh Bình, để hỏi bán xe. Hai bên hẹn nhau ra quán nước cạnh sân bóng phường NT, anh H đi cùng anh Đàm Phú G sinh năm 1990, trú tại xã NT, Thành phố Ninh Bình. Quá trình mua bán xe C nói dối anh H chiếc xe trên là của C, mẹ C mới mua cho C làm phương tiện đi lại. Anh H đồng ý mua xe với giá 30.000.000 đồng nhưng do chỉ có 25.000.000 đồng nên anh H vay của anh G 5.000.000 đồng. Khi anh G về nhà lấy tiền, C viết cho anh H giấy bán xe đề ngày 05/7/2018 có chữ ký của C. Sau khi nhận đủ số tiền 30.000.000 đồng C giao xe và đưa toàn bộ giấy tờ xe cùng một bản phô tô thẻ căn cước của C cho anh H. Anh H bỏ giấy tờ xe vào cốp xe rồi gửi anh G giữ hộ xe. Sau đó anh G gửi chiếc xe trên tại nhà anh Nguyễn Ngọc K sinh năm 1974 ở thôn CLT, xã NT, thành phố Ninh Bình. Số tiền C bán xe C tiêu sài cá nhân hết.

Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-444.94; 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ mang tên ông NTS, địa chỉ thôn BC, xã NK, huyện HL, tỉnh Ninh Bình; 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Trần Cao C; 01 giấy bán xe ghi tên Trần Cao C, sinh năm 1992, trú tại ngõ M, PT, PK, thành phố Ninh Bình có nội dung ngày 05/7/2018 C bán cho anh Vũ Anh H chiếc xe mô tô Exciter 150 biển kiểm soát 35B2-444.94 với giá 30.000.000 đồng, bên dưới có chữ ký của C do anh Vũ Anh H đã tự nguyện giao nộp.

Tiến hành trưng cầu giám định đối với chữ ký, chữ viết của Trần Cao C trong “giấy bán xe” đề ngày 05/7/2018 (ký hiệu A) với chữ ký, chữ viết của Trần Cao C trên mẫu so sánh (một “bản kiểm điểm” của Trần Cao C đề ngày 19/7/2018 - ký hiệu M) có phải do cùng một người viết và ký ra hay không.

Tại kết luận giám định số 32 ngày 31/7/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Chữ viết, chữ ký dạng viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ viết, chữ ký của Trần Cao C trong các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M là do cùng một người viết, ký ra”.

Tại kết luận định giá tài sản số 50 ngày 01/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình kết luận: Xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 149cm3, biển kiểm soát 35B2-444.94 có giá trị 38.250.000 đồng Tại bản cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 24/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố Trần Cao C ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Cao C phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Cao C từ 36 đến 42 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 20/12/2018.

- Buộc Trần Cao C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Trần Cao C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; Phù hợp với lời khai của bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng; Phù hợp với kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, tài sản thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 30/6/2018, Trần Cao C đã mượn chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-444.94 của anh NTD để đi lại. Do không có tiền ăn tiêu nên Trần Cao C nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh NTD. Trần Cao C nói dối anh D là xe mô tô đã bị Cảnh sát cơ động giữ để anh D đưa giấy tờ xe cho C. Sau khi có được xe mô tô cùng giấy tờ xe, ngày 05/7/2018 Trần Cao C đã mang xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-444.94 của anh NTD bán cho anh Vũ Anh H lấy 30.000.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân hết. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bản thân Trần Cao C đã có 02 tiền án về nhóm tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 175 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố Trần Cao C với tội danh và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật công nhận, bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi chiếm đoạt của mình là vi phạm pháp luật, thấy trước được hậu quả nhưng vẫn cố ý thực hiện. Ngoài việc xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác, hành vi của bị cáo còn gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng xấu đến đời sống nhân dân trong khu vực. Để bảo vệ trật tự xã hội, có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung thì việc truy tố, đưa ra xét xử, buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết.

Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; Gia đình bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 30.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo đã nhiều lần bị xử lý về hình sự về tội chiếm đoạt tài sản nhưng vẫn không chịu ăn năn hối cải, sửa chữa lỗi lầm mà tiếp tục phạm tội, thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu.

Về hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Đối với anh Vũ Anh H là người đã mua chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2 - 444.94, anh Đàm Phú G là người cho anh H vay 5.000.000 đồng để mua xe mô tô, anh Nguyễn Ngọc K là người giữ hộ xe mô tô. Quá trình điều tra xác định anh H, anh G, anh K không biết chiếc xe trên do C chiếm đoạt của anh D nên không có căn cứ để xử lý anh H, anh G, anh K.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Đối với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2 - 444. 94 và giấy tờ xe gồm 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô xe máy mang tên NTS. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên và toàn bộ các giấy tờ xe là của ông NTS (bố đẻ của anh D). Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe trên cho ông S là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi nhận lại chiếc xe trên ông S có không yêu cầu gì.

Đối với số tiền 30.000.000 đồng Trần Cao C nhận của anh Vũ Anh H sau khi bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-444.94, ông Trần Ngọc M sinh năm 1963, trú tại thôn PT, phường PK, thành phố Ninh Bình (là bố đẻ của C) đã tự nguyện trả cho anh H. Anh H đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu, đề nghị gì với C. Ông M không yêu cầu C phải hoàn trả số tiền trên. Số tiền 5.000.000 đồng anh H vay của anh G để mua xe, anh G tự thỏa thuận với anh H và không có yêu cầu, đề nghị gì.

[5] Về áp dụng biện pháp tư pháp - xử lý vật chứng:

Đối với 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Trần Cao C; 01 giấy bán xe đề ngày 5/7/2018 giữa Trần Cao C và anh Vũ Anh H chuyển theo hồ sơ vụ án.

Về chiếc điện thoại C dùng để liên lạc với anh D mượn xe và nói dối xe bị Cảnh sát cơ động bắt để mượn giấy tờ xe sau đó bán chiếc xe, C đã đánh mất chiếc điện thoại trên,C không nhớ mất ở đâu. Do đó Cơ quan điều tra không thu giữ được chiếc điện thoại trên.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; Bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Cao C phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Cao C 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 20/12/2018.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Buộc Trần Cao C phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (21/3/2019); Bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự, có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:25/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về