Bản án 26/2017/DS-ST ngày 05/09/2017 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 26/2017/DS-ST NGÀY 05/09/2017 VỀ TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 84/2017/TLST-DS ngày 06 tháng 6 năm 2017 về “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 153/2017/QĐXX ngày 07 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 170/2017/QĐST-DS ngày 21 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn H, sinh năm 1954; địa chỉ: số 29 đường Cao Bá Quát, tổ 16, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt

2. Bị đơn: Bà Ka Pou Thu Ph, sinh năm 1981; địa chỉ: thôn 5B, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt

3. Người làm chứng: bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1967. Địa chỉ: xóm 3, thôn 6, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/5/2017 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn ông Trần Văn H trình bày:

Ngày 15/01/2017 em dâu của ông là bà T khi đi bộ bán vé số hướng từ thành phố Bảo Lộc về huyện D, khi đến địa phận thuộc xã Hòa N thì bị con trai của bà Ka Pou Thu Ph gây tai nạn giao thông, làm gãy hai chân phải đi Bệnh viện Chợ Rẫy- Thành Phố Hồ Chí Minh cấp cứu. Sau khi gây tai nạn, hai bên thỏa thuận số tiền bồi thường thiệt hại là 50.000.000 đồng, gia đình bà Thu Ph đã bồi thường được 10.000.000 đồng, vì gia đình bà Thu Ph có hoàn cảnh khó khăn nên ngày 16/02/2017 ông đã tạo điều kiện cho bà Thu Ph vay 40.000.000 đồng để chữa trị cho bà T. Khi vay hai bên có lập “giấy mượn tiền”, thỏa thuận mỗi tháng trả 6.000.000 đồng vào ngày 01 hàng tháng kể từ tháng kế tiếp của tháng vay tiền. Đến hạn, bà Thu Ph mới trả được 6.000.000 đồng, số tiền 34.000.000 đồng còn lại đến nay chưa trả. Nay ông yêu cầu Tòa án buộc bà Thu Ph có trách nhiệm trả số tiền 34.000.000 đồng còn thiếu và không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn bà Ka Pou Thu Ph đã nhận được thông báo thụ lý vụ án, đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến Tòa án để trình bày lời khai; tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng đều vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến trình bày.

Người làm chứng bà Nguyễn Thị T xác nhận lời trình bày của ông H là đúng sự thật, bà cam kết không thắc mắc, khiếu nại và yêu cầu gì đối với bà Ka Pou Thu Ph liên quan đến việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm trong việc gây tai nạn giao thông, chỉ đề nghị bà Thu Ph có trách nhiệm trả khoản tiền 34.000.000 đồng xác nhận vay ông H để ông H giao lại cho bà chữa trị bệnh, ngoài ra bà không có yêu cầu gì khác và không trình bày gì thêm.

Tòa án đã tiến hành mở phiên hòa giải vào ngày 07/8/2017 nhưng bà Thu Ph vắng mặt không có lý do nên không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, ông H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bà T giữ nguyên ý kiến trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D có quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án là đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H; buộc bà Thu Ph có nghĩa vụ trả cho ông H số tiền vay là 34.000.000 đồng. Về án phí: đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay bị đơn bà Thu Ph đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Ph theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 16/02/2017 ông H và bà Thu Ph có lập “Giấy mượn tiền”, theo đó bà Thu Ph xác nhận vay ông H 40.000.000 đồng để chữa trị cho bà T. Sau khi vay tiền, bà Thu Ph mới trả được cho ông 6.000.000 đồng. Nay ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Thu Ph có trách nhiệm trả khoản nợ 34.000.000 đồng còn thiếu nên căn cứ khoản 3 Điều 26 Bộ luật dân sự năm 2015 có đủ cơ sở xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản”. Theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện D.

[3] Theo Giấy mượn tiền ngày 16/02/2017 lập tại Văn phòng công chứng Phan Minh H (BL_11) do ông H xuất trình thể hiện bà Thu Ph có vay ông H số tiền 40.00.000 đồng, hẹn hàng tháng kế tiếp của tháng vay mỗi tháng sẽ có trách nhiệm trả cho ông H 6.000.000 đồng. Theo ông H, bà Thu Ph đã trả được cho ông H 6.000.000 đồng, số tiền 34.000.000 đồng còn lại đã nhiều lần ông H yêu cầu bà Thu Ph trả nhưng bà Thu Ph cố tình chây lỳ không trả. Qua đánh giá chứng cứ thì thấy, trong giấy mượn tiền bà Thu Ph có ký tên xác nhận phía bên mượn tiền nên có đủ cơ sở khẳng định việc vay tiền là có thật và xảy ra trong thực tế. Quá trình giải quyết vụ án, bà Thu Ph đã nhận được thông báo thụ lý, đã được triệu tập hợp lệ đến Tòa án làm việc nhưng cố tình không đến trình bày lời khai để bảo vệ quyền lợi cho mình nên tự chịu hậu quả pháp lý về việc này. Sự việc cố tình không đến Tòa án cũng cho thấy sự thiếu thiện chí của bà Thu Ph trong việc trả nợ. Như vậy, cần buộc bà Thu Ph có trách nhiệm trả nợ cho ông H khoản vay 34.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự. Về lãi suất ông H không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không đề cập.

Từ những phân tích trên, cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H, buộc bà Thu Ph có trách nhiệm trả cho ông H số tiền là 34.000.000 đồng. 

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận toàn bộ nên ông H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm cho ông H.

Bà Thu Ph phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với số tiền phải trả cho ông H là 1.700.00 đồng (5% x 34.000.000 đồng)

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H. Buộc bà Ka Pou Thu Ph

có nghĩa vụ trả cho ông Trần Văn H số tiền 34.000.000 đ (Ba mươi tư triệu đồng)

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự

2. Về án phí:

2.1. Ông Trần Văn H được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 850.000 đồng (tám trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2015/0004496 ngày 06 tháng 6 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện D.

2.2. Bà Ka Pou Thu Ph phải chịu 1.700.000 đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2017/DS-ST ngày 05/09/2017 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:26/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về