Bản án 26/2017/HSST ngày 08/09/2017 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ – TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 26/2017/HSST NGÀY 08/09/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 08/9/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 25/2017/HSST ngày 18 tháng 8 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn H, sinh năm 1993 tại xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; trú tại: Xóm Bắc, thôn Yên Dương, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiêp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Bùi Văn H và bà Phạm Thị N; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2017 đến 11/7/2017, sau đó được áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú” của cơ quan C sát điều tra Công an huyện Yên Mô; có mặt.

2. Nguyễn Văn T, sinh năm 1997 tại xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; trú tại: Xóm Bến, thôn T, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiêp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Nguyễn Văn L và bà An Thị H; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hiện đang bị đình chỉ sinh hoạt đảng theo Quyết định số 48 – QĐ/UBKTHU, bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2017 đến 11/7/2017, sau đó được  áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú” của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô; có mặt.

3. An Ngọc C, sinh năm 1993 tại xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; trú tại: Xóm Bến, thôn T, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiêp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông An Ngọc Q và bà Nguyễn Thị Đ; vợ là Vũ Thị L và 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2017 đến 11/7/2017, sau đó được áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú” của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô; có mặt.

4. Nguyễn Thành X, sinh năm 1983 tại xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; trú tại: Thôn Y, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiêp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Nguyễn Quốc S và bà Trần Thị T; vợ là Phạm Thị H và 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2017 đến 11/7/ 2017 sau đó được áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú” của cơ quan c nh sát điều tra Công an huyện Yên Mô; có mặt.

NHẬN THẤY

Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Tối ngày 08/7/2017 Bùi Văn H, Nguyễn Văn T, An Ngọc C, Nguyễn Thành X, Ngô X Trình đến nhà anh Bùi Đức T1, sinh năm 1984 thuộc xóm Bắc, Yên Dương, xã K, huyện Y chơi. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày anh Tuấn rủ H, T, C, X, T2 đi hát Karaoke tại xóm Mới, xã K, huyện Y, đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì cả 6 người lại quay về nhà anh Tuấn uống nước, nói chuyện. Do uống bia, mệt nên anh T1 nằm ngủ ở phòng khách, năm người  còn lại vẫn tiếp tục ngồi nói chuyện. Đến 23 giờ ngày 08/7/2017 H rủ T, C, X, T2 đánh bạc được thua bằng tiền, hình thức đánh “Liêng”, mức đặt cửa là 5.000đ, phạt tối đa 30.000đ thì C, X, T đồng ý, còn T2 không chơi mà ngồi ghế phòng khách chơi điện tử trên điện thoại. H lấy bộ bài có sẵn dưới gầm bàn uống nước cầm lên rồi cùng C, T, X đi vào gian buồng ngủ nhà anh T1 ngồi vòng tròn từ trái sang phải theo thứ tự H – T – C – X và bắt đầu đánh bạc. Bốn người đánh bạc đến 00 giờ 40 phút ngày 09/7/2017 thì bị Công an huyện Yên Mô phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 bộ tú lơ khơ 52 quân và tổng số tiền 6.680.000đ, trong đó: của H 2.900.000đ; của T 1.740.000đ; của C 1.240.000đ; của X 800.000đ.

Kết quả điều tra xác định: Bùi Văn H sử dụng số tiền 2.800.000đ để đánh bạc, khi bị bắt thắng 100.000đ; Nguyễn Văn T sử dụng 1.080.000đ để đánh bạc, khi bị bắt thắng 660.000đ; An Ngọc C sử dụng 1.400.000đ để đánh bạc, khi bị bắt thua 160.000đ; Nguyễn Thành X sử dụng số tiền 1.400.000đ để đánh bạc, khi bắt thua 600.000đ. Quá trình điều tra các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 28/CT – VKS ngày 17/8/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã truy tố các bị cáo Bùi Văn H, Nguyễn Văn T, An Ngọc C, Nguyễn Thành X để xét xử về tội: “ Đánh bạc” theo Điều 248 khoản 1, khoản 3 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo: H, T, C, X phạm tội “ Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 248; các điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo H từ 6 đến 7 triệu đồng; xử phạt các bị cáo T, C, X mỗi bị cáo từ 5 đến 6 triệu.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự; Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền các bị cáo đã sử dụng vào việc đánh bạc là 6.680.000đ; tịch thu tiêu hủy bộ bài tú lơ khơ 52 quân đã thu giữ của các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác

XÉT THẤY

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện lập hồi 00 giờ 50 phút ngày 09/7/2017 cùng với các vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm và cách thức thực hiện hành vi phạm tội nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 08/7/2017 Bùi Văn H, Nguyễn Văn T, An Ngọc C và Nguyễn Thành X đánh bạc trái phép bằng hình thức chơi “ liêng” được thua bằng tiền tại buồng ngủ của nhà anh Bùi Đức T1 ở xóm Bắc, thôn Y, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình đến 00 giờ 40 phút ngày 09/7/2017 thì bị Công an huyện Yên Mô bắt quả tang thu giữ một bộ bài tú lơ khơ 52 quân và số tiền 6.680.000đ mà các bị cáo dùng vào việc đánh bạc. Hành vi trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 248 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương do đó cần xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo các bị cáo và góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt cần xem xét tính chất, mức độ, vai trò hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo để cá thể hóa mức hình phạt cho phù hợp:

Đối với bị cáo H là người chủ động rủ các bị cáo chơi đánh liêng, là người qui định mức sát phạt và cũng là sử dụng số tiền đánh bạc nhiều nhất, còn các bị cáo T, C, X là những người tích cực tham gia đánh bạc từ đầu cho đến khi bị bắt quả tang, do đó cần áp dụng mức hình phạt đối với H cao hơn mức phạt đối với các bị cáo T, X và C.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo là đều: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các tình tiết giảm nhẹ này được qui định tại các điểm h, p khoản 1 Điều 46; các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Do vậy cần áp dụng hình phạt chính bằng tiền đối với các bị cáo là phù hợp với những qui định của pháp luật.

Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra cơ quan CSĐT Công an huyện Y đã thu giữ 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân và tổng số tiền 6.680.000đ. Xét 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân là công cụ phương tiện các bị cáo đã sử dụng để đánh bạc không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 6.680.000đ cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Các bị cáo bị xử có tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo: Bùi Văn H, Nguyễn Văn T, An Ngọc C, Nguyễn Thành X phạm tội “ Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự đối với tất cả các bị cáo, xử phạt:

- Bùi Văn H: 6.000.000đ ( Sáu triệu đồng ).

- Nguyễn Văn T, An Ngọc C, Nguyễn Thành X mỗi bị cáo 5.000.000đ ( Năm triệu đồng ).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đối với khoản tiền phạt các bị cáo phải thi hành cho đến khi thi hành xong, hàng tháng các bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo qui định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự; Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền các bị cáo đã sử dụng vào việc đánh bạc là 6.680.000đ ( Sáu triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng ); số tiền này hiện có trong tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Mô theo ủy nhiệm chi lập ngày 04/8/2017 tại Kho bạc Nhà nước huyện Yên Mô.

- Tịch thu tiêu hủy bộ bài tú lơ khơ 52 quân đã thu giữ của các bị cáo có đặc điểm tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/8/2017 giữa Công an huyện Yên Mô và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Mô.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo: Bùi Văn H, Nguyễn Văn T, An Ngọc C, Nguyễn Thành X mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng ) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2017/HSST ngày 08/09/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:26/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mô - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về