Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 29/2019/TLST–HNGĐ, ngày 16 tháng 01 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1991, cư trú: Ấp L, xã P, huyện C, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Anh Đặng Văn P, sinh 1987, cư trú tại: Ấp L, xã P, huyện C, tỉnh Long An.

 (Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 12 tháng 12 năm 2018, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và bị đơn là anh Đặng Văn P chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2008, đến năm 2013 đăng ký kết hôn theo chứng nhận đăng ký kết hôn số 39 ngày 04/4/2013 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Long An. Trong thời gian chung sống, giữa chị và anh P hay xảy ra những bất đồng, đến giữa năm 2018 phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do anh P kiếm chuyện với chị, bên cạnh đó anh P không tin tưởng chị, hay ghen vô cớ, anh P còn chửi, đuổi mẹ con chị ra khỏi nhà. Khoảng tháng 10 năm 2018, chị và 02 con về nhà mẹ ruột của chị sinh sống. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên chị yêu cầu ly hôn với anh P.

Về con chung: chị và anh P có 02 con chung là Đặng Thị Thu H, sinh ngày 10/5/2009 và Đặng Phúc H, sinh ngày 18/9/2013, hiện 02 con đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu nuôi 02 con chung, chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nữa. Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh Đặng Văn P trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị Nguyễn Thị L về thời gian chung sống và thời điểm kết hôn. Về nguyên nhân mâu thuẫn theo chị L trình bày thì anh không thống nhất. Anh thừa nhận anh cũng hay lớn tiếng với chị L nhưng nguyên nhân là do chị L kiếm chuyện đòi hủy giấy chứng nhận kết hôn với anh. Anh phát hiện chị L có quan hệ tình cảm với người khác nhưng anh đã bỏ qua. Nay chị L yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý vì anh xét thấy mâu thuẫn vợ chồng không có gì lớn, con vẫn còn nhỏ, anh vẫn còn thương vợ, thương con. Nhưng nếu chị Linh vẫn kiên quyết ly hôn thì do Hội đồng xét xử quyết định. Về con chung: anh và chị L có 02 con chung là Đặng Thị Thu H, sinh ngày 10/5/2009 và Đặng Phúc H, sinh ngày 18/9/2013, hiện 02 con chung đang sống với chị L. Trường hợp chị L kiên quyết ly hôn thì anh đồng ý để chị L nuôi 02 con chung, anh không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thẩm quyền của Tòa án và quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào nơi cư trú và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị L đối với bị đơn anh Đặng Văn P, xét vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An và quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp ly hôn căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 các Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị L đối với bị đơn anh Đặng Văn P: Chị L và anh P kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Long An vào năm 2013 đúng với quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Chị L trình bày cuộc sống chung của vợ chồng chị không hạnh phúc. Nguyên nhân là do anh P hay kiếm chuyện, gây khó dễ với chị, bên cạnh đó anh P không tin tưởng, nghi ngờ chị không chung thủy. Chị L xét thấy, tình cảm vợ chồng không còn, chị không thể tiếp tục chung sống với anh P nên chị khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh P. Tòa án thụ lý vụ án và tiến hành hòa giải nhiều lần nhằm tạo điều kiện cho chị L và anh P hàn gắn lại tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Anh P không đồng ý ly hôn nhưng anh P không đưa ra được biện pháp để giải quyết mâu thuẫn. Tại phiên tòa, chị L kiên quyết yêu cầu ly hôn với anh P. Từ đó, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh P đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị L đối với anh P.

[3] Về con chung: Chị L và anh P có 02 người con chung là Đặng Thị Thu H, sinh ngày 10/5/2009 và Đặng Phúc H, sinh ngày 18/9/2013. Cháu Đặng Thị Thu H có nguyện vọng muốn được sống với chị L, còn Đặng Phúc H chưa đủ 07 tuổi nên không xem xét nguyện vọng của cháu H. Hiện 02 con chung đang sống với chị L, chị L yêu cầu được nuôi 02 con chung, anh P cũng đồng ý để chị L trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Về cấp dưỡng nuôi con, do chị L tự nguyện không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị L và anh P xác định anh chị không có tài sản chung, nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn chị L phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 các Điều 35, 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị L đối với bị đơn anh Đặng Văn P.

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị L và anh Đặng Văn P.

Về nuôi con chung: Giao 02 người con chung là Đặng Thị Thu H, sinh ngày 10/5/2009 và Đặng Phúc H, sinh ngày 18/9/2013 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu anh Đặng Văn P cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009676 ngày 16/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, chị L đã nộp đủ tiền án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về