Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 30 tháng 5 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài mở phiên Tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 516/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/QĐXX-ST ngày 12 tháng 4 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 25/2019/QĐST-ST ngày 07 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị A – SN: 1994 (Có đơn xin vắng)

- Bị đơn: Ông Phạm Hùng B – SN: 1977 (Vắng mặt không có lý do)

Cùng trú tại: Khu phố TX, phường TX, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 11 năm 2018 và quá trình giải quyết vụ án bà Lê Thị A trình bày:

Bà và ông B tự nguyện tìm hiểu, yêu A nhau, không ai ép buộc, tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2015, có làm thủ tục đăng ký kết theo quy định của pháp luật tại UBND xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, lý do mâu thuẫn là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được mọi việc trong gia đình vợ chồng hay cải nhau, ông B không quan tâm đến gia đình, hay nhậu nhẹt, quấy phá chổ buôn bán của bà A, nhiều lần ông B chửi mắng và đánh đập bà, bà đã làm đơn ly hôn tại tòa án 02 lần nhưng do A con và ông B hứa sữa đổi nên bà đã rút đơn về đoàn tụ gia đình. Nay ông B vẫn chứng nào tật nấy không thay đổi, nên bà quyết định ly hôn với ông B, hiện nay bà và ông B đã sống ly thân với nhau từ tháng 8 năm 2018 cho đến nay.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài nên bà A yêu cầu được ly hôn với ông B.

Về con chung: Trong thời gian chung sống bà A và ông B có 01 con chung là cháu Phạm Hà C – SN: 08 tháng 9 năm 2016.

Bà A yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Phạm Hùng B vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và không có lời trình bày.

- Đại diện viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Đối với thẩm phán Hội đồng xét xử, thư ký phiên toà và các đương sự đã tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Đối với yêu cầu khởi kiện của bà A là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A về việc được ly hôn với ông B và giao con chung là cháu Phạm Hà C – SN: 08 tháng 9 năm 2016 cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu đầy đủ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Toà án nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền của Toà án: Đây là vụ án “Tranh chấp về ly hôn” do bà Lê Thị A đứng đơn khởi kiện, bị đơn ông Phạm Hùng B trú tại Khu phố TX, phường TX, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Căn cứ khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt nguyên đơn và bị đơn; Đối với nguyên đơn bà Lê Thị A có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn ông Phạm Hùng B đã được Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng ông không đến Tòa án để tham gia tố tụng. Qua xác minh tại địa phương thì được biết, ông B có đăng ký tạm trú tại khu phố TX, phường TX, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước nhưng từ tháng 4 năm 2018 cho đến nay đã đi khỏi địa phương. Đồng thời, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông B trong quá trình tham gia tố tụng, Tòa án đã thực hiện thủ tục thông báo tìm kiếm trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng ông B vẫn vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bà A, ông B theo thủ tục chung.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời trình bày của bà A và những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định bà A và ông B kết hôn năm 2015 tại UBND xã LH, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình thì hôn nhân giữa bà A và ông B là hôn nhân hợp pháp.

[4]. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa bà A và ông B; Bà A trình bày thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, lý do mâu thuẫn là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được mọi việc trong gia đình vợ chồng hay cải nhau, ông B không quan tâm đến gia đình, hay nhậu nhẹt, quấy phá chổ buôn bán của bà A, nhiều lần ông B chửi mắng và đánh đập bà, bà đã làm đơn ly hôn tại tòa án 02 lần nhưng do A con và ông B hứa sữa đổi nên bà đã rút đơn về đoàn tụ gia đình. Nay ông B vẫn chứng nào tật nấy không thay đổi, do đó bà quyết định ly hôn với ông B, hiện nay bà và ông B đã sống ly thân với nhau từ tháng 8 năm 2018 cho đến nay. Xét thấy, lời trình bày của bà A phù hợp với biên bản xác minh tình trạng hôn nhân của Toà án lập ngày 25 tháng 12 năm 2018 được chính quyền địa phương nơi bà A, ông B sinh sống xác nhận nội dung việc ông bà có mâu thuẫn như bà A nêu trên là đúng. Do đó, lời trình bày của bà A là phù hợp có cơ sở được chấp nhận. Đối với ông B vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không gửi ý kiến của mình cho Tòa án nên Toà án căn cứ các chứng cứ do bà A cung cấp, trình bày để giải quyết vụ án. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa đã tiến hành mở phiên hòa giải để hòa giải cho bà A và ông B đoàn tụ nhưng ông B vẫn vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn giữa bà A và ông B là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không được duy trì nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà A.

[5]. Về con chung: Bà A và ông B có có 01 con chung là cháu Phạm Hà C – SN: 08 tháng 9 năm 2016. Bà A yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu C còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi cần có sự chăm sóc của người mẹ là tốt nhất. Trong quá trình giải quyết vụ án ông B không có ý kiến, yêu cầu gì về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Do đó, nhằm ổn định cuộc sống của cháu C cần giao cháu cho bà A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của bà A về việc không yêu cầu ông B không phải cấp dưỡng nuôi con.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[7]. Về ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà là có căn cứ được chấp nhận.

[8]. Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà Lê Thị A phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 35, 39, 227, 228, 147, 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 09, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ cào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị A về việc ”tranh chấp ly hôn”

2. Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị A được ly hôn với ông Phạm Hùng B (Bà A và ông B kết hôn ngày 23 tháng 11 năm 2015 theo giấy chứng nhận kết hôn số 16/2015 Uỷ ban nhân dân xã LH, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước).

Về con chung: Giao cháu Phạm Hà C, sinh ngày 08 tháng 9 năm 2016 cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng; Ông B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con nếu có căn cứ cho rằng mình hoặc bên kia không đáp ứng được quyền lợi cho con.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000727 ngày 07 tháng 12năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài; Bà A đã nộp đủ án phí.

4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về