Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 10 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ L số: 143/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2019/QĐXX-ST ngày 24 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L - Sinh năm 1994

Địa chỉ: Thôn 5, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Anh Tạ Quốc P - Sinh năm 1993

Địa chỉ: Thôn 5, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

Tại phiên toà có mặt chị L, vắng mặt anh P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Ti đơn khởi kiện ngày 29/5/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Tạ Quốc P kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được UBND xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/01/2017. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 11/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp về tính cách nên vợ chồng thường xuyên cải vả nhau, mặt khác anh P không quan tâm chăm sóc vợ con, cuộc sống căng thẳng. Do không chịu đựng được nên từ tháng 6/2018 chị đã bế con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn anh P.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Tạ Vân Tr - Sinh ngày 11/10/2017. Hiện nay các cháu khỏe mạnh bình thường và đang ở với chị.

Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con, hiện nay chị làm công nhân mức lương 4.500.000đồng/tháng.

- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Sau khi Toà án thụ L vụ án, Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã triệu tập anh P và đã tống đạt các văn bản tố tụng liên quan theo đúng quy định đối với anh Tạ Quốc P (gia đình anh P đã nhận giấy tờ và cam kết sẽ giao lại văn bản tố tụng cho anh) nhưng anh P không đến làm việc.

* Ngày 27/8/2019 Tòa án nhân dân huyện Hà Trung nhận được qua đường Bưu điện do anh Tạ Quốc P gửi gồm: Đơn trình bày nguyện vọng của chồng; Giấy xác nhận của UBND xã Hà Giang; CMND phô tô của anh P.

Tại đơn trình bầy ngày 19/8/2019 anh Tạ Quốc P trình bày như sau: Tôi Tạ Quốc P và cô Nguyễn Thị L kết hôn ngày 16/01/2017, lễ thành hôn hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu và được hai bên gia đình đồng thuận. Mới đầu sống hạnh phúc cho đến khi sinh con là Tạ Vân Tr sinh ngày 11/10/2017 xảy ra mâu thuẫn cô L bỏ về nhà mẹ đẻ, sau hai bên gia đình họp thì cô L về chung sống được 01 tháng thì con ốm, khi con xuất viện cô L xin về nhà ngoại và không về chung sống với anh nữa. Thỉnh thoảng anh có lên thăm con nhưng bà ngoại chửi bới, buồn chán nên đến nay anh ít lên thăm. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không có sự thông cảm, chia sẽ được. Nên đề nghị Tòa cho chúng tôi được ly hôn. Vì anh xa xôi không thu xếp đầy đủ điều kiện để về được, giấy này nói lên nguyện vọng của anh như sau: Thời gian chung sống cô L chưa đóng góp gì nên không có tài sản chung; con là Tạ Vân Tr anh chấp thuận để cô L nuôi con, cô L không cần chu cấp và hiện nay anh lao động tự do chưa có việc làm ổn định nên anh không chu cấp.

* Theo bà Nguyễn Thị Nh là mẹ đẻ của anh P cho biết: Anh P và chị L là vợ chồng, kết hôn năm 2017. Đến cuối năm 2017 cháu L bỏ về nhà mẹ đẻ ở, đến đầu năm 2019 cháu P không lên thăm nữa, từ đó vợ chồng sống ly thân. Vợ chồng có 01 con chung là Tạ Vân Tr, sinh năm 2017, hiện nay ở với mẹ, vợ chồng không có tài sản chung. Hiện nay cháu P lao động tự do chưa có việc làm ổn định. Các loại giấy tòa Tòa án giao bà đã trực tiếp giao cho cháu P. Quan điểm của bà và cháu P là đề nghị được ly hôn, giao con cho chị L nuôi, anh P không cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

* Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã tiến hành xác minh tại xã Hà Giang, theo thông tin cung cấp thì được biết: Chị L và anh P là vợ chồng, anh chị sống với nhau khoảng 01 năm thì chị L bỏ về nhà mẹ đẻ ở, trong năm đầu chị L thường xuyên bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống dẫn đến vợ chồng cải nhau, vợ chồng đã sống ly thân được một thời gian dài. Hiện nay anh P chưa có công việc làm ổn định, đi làm vài ngày lại về, vợ chồng có 01 con chung là Tạ Vân Tr.

Do chị L có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Tại phiên Toà, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của chị L, xử cho ly hôn giữa chị L và anh P, về con chung giao cháu Tạ Vân Tr cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh P không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị L.

Tại phiên tòa hôm nay chị L giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Tạ Quốc P không có mặt tại phiên toà, Toà án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên toà cũng được hoãn lần thứ nhất. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt anh P.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Tạ Quốc P kết hôn năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Chị L xin được ly hôn. Đối với anh Tạ Quốc P dù biết chị L có đơn xin ly hôn, nhưng anh không đến Tòa án làm việc và anh có gửi đến Tòa án đơn trình bầy nguyện vọng xin được ly hôn chị L.

Tòa án đã đưa ra hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ và tại phiên tòa anh đều vắng mặt, đây thể hiện anh không quan tâm đến việc giải quyết vụ án, chứng tỏ anh P không còn thiết tha níu kéo tình cảm vợ chồng. Ngoài ra theo bà Nho là mẹ đẻ anh P cho biết vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay, nguyện vọng của anh P cũng xin được ly hôn chị L.

Xét thấy, nguyện vọng xin được ly hôn của chị L là có cơ sở, mâu thuẫn vợ chồng của anh chị đã trầm trọng, anh chị đã có thời gian dài sống ly thân và không ai quan tâm đến ai. Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây chị L đã thực sự không còn tình cảm với anh P và anh P bỏ mặc việc giải quyết vụ án không thiết tha níu kéo tình cảm vợ chồng. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L và căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn anh P là phù hợp.

[3] Về con: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Tạ Vân Tr, sinh ngày 11/10/2017. Ly hôn chị L đề nghị được nuôi con. Chị L đã xuất trình bản sao giấy khai sinh của cháu Tr và có ghi tên mẹ là Nguyễn Thị L và bố là Tạ Quốc P. Như vậy đủ cơ sở khẳng định cháu Tr là con chung của chị L và anh P. Tại đơn yêu cầu nguyện vọng anh và ý kiến của bà Nh đều thể hiện anh đồng ý giao con cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng.

Xét thấy nguyện vọng giao con cho chị L nuôi là hoàn toàn chính đáng. Bởi từ trước đến nay chị L trực tiếp nuôi và cháu phát triển bình thường. Hội đồng xét xử thấy rằng cháu Tr mới được 24 tháng tuổi, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật HN&GĐ là con dưới 36 tháng tuổi giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, nên cần giao cho mẹ nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với sự phát triển về tâm sinh L của cháu. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HNGĐ giao cháu Tr cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con, hiện nay chị làm công nhân mức lương 4.500.000đồng/tháng. Tại giấy xác nhận của UBND xã Hà Giang ngày 26/8/2019 do anh P gửi thể hiện anh chưa có việc làm ổn định, đang lao động tự do. Xét thấy hiện nay anh chưa có việc làm nên không có thu nhập ổn định và chị L cũng không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con. Nên Hội đồng xét xử không buộc anh P phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị L.

[3] Về tài sản: Chị L không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị L là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị L phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

[1]. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị L và anh Tạ Quốc P.

[2]. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu: Tạ Vân Tr - Sinh ngày 11 tháng 10 năm 2017.

2.1. Giao con chung Tạ Vân Tr cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Tạ Quốc P không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L.

2.4. Anh P có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[3]. Về chia tài sản: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000đ tin án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0000498 ngày 05/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị L đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[5]. Về quyền kháng cáo: Chị L và anh P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày. Đối với chị L kể từ ngày tuyên án; đối với anh P kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết..

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về