Bản án 26/2019/HN-ST ngày 30/09/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 26/2019/HN-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 30 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường, vụ án thụ lý số 384/2019/TLST-HN ngày 28 tháng 8 năm 2019 về việc không công nhận quan hệ vợ chồng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 11 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đào Thị Tuyết P, sinh năm 1979

2. Bị đơn: Ông Lê Hồng Ph, sinh năm 1979

Cùng địa chỉ: Số 212 đường L, tổ 29, phường C, Quận 2.

(Bà P và ông Ph có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai khai và các văn bản khác, nguyên đơn là bà Đào Thị Tuyết P trình bày: Bà và ông Lê Hồng Ph quen biết nhau, sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2000 có tổ chức đám cưới và được hai bên gia đình thừa nhận nhưng bà và ông Ph không đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống giữa bà và ông Ph có nhiều mâu thuẫn do có nhiều bất đồng trong quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, ông Ph không còn quan tâm đến vợ con, nhiều lúc muốn bỏ qua mẫu thuẫn để cùng nhau tiến tới hôn nhân nhưng việc này lặp đi lặp lại nhiều lần khiến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Do tình cảm không còn, để ổn định cuộc sống bà P khởi kiện yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà và ông Ph.

Về con chung: Bà P và ông Ph có 02 con chung tên Lê Thị Hồng N (nữ) sinh ngày 17/10/2001 và Lê Đông H (nam) sinh ngày 07/02/2007, bà P và ông Ph thỏa thuận ông Ph sẽ trực tiếp nuôi con chung là trẻ Lê Thị Hồng Như cho đến khi trẻ N trưởng thành, bà P sẽ trực tiếp nuôi con chung là trẻ Lê Đông H cho đến khi trẻ H trưởng thành, hai bên thống nhất không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lê Hồng Ph trình bày: Ông và bà P chung sống với nhau như vợ chồng, có tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn từ năm 2000. Thời gian đầu chung sống với nhau hạnh phúc, sau đó bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do có nhiều bất đồng trong quan điểm sống, không còn quan tâm đến nhau. Nay nhận thấy cuộc sống không thể tiếp túc kéo dài, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, ông và bà P đều không muốn đăng ký kết hôn với nhau nên ông đồng ý đề nghị Tòa án không công nhận ông và bà P là vợ chồng.

Về con chung: Ông và bà P có 02 con chung tên Lê Thị Hồng N (nữ) sinh ngày 17/10/2001 và Lê Đông H (nam) sinh ngày 07/02/2007, ông và bà P thỏa thuận ông Ph sẽ trực tiếp nuôi con chung là trẻ Lê Thị Hồng N cho đến khi trẻ N trưởng thành, bà P sẽ trực tiếp nuôi con chung là trẻ Lê Đông H cho đến khi trẻ H trưởng thành, hai bên thống nhất không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa bà P và ông Ph đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên không có lời trình bày tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, bị đơn có nơi cư trú tại Quận 2 nên căn cứ căn cứ Khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 2.

Bà Đào Thị Tuyết P và ông Lê Hồng Ph đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, quyết định xét xử vắng mặt bà P và ông Ph.

[2] Xét quan hệ hôn nhân: Bà P và ông Ph quen biết nhau và tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2000 có tổ chức đám cưới và được hai bên gia đình thừa nhận nhưng không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Trong quá trình chung sống giữa bà P và ông Ph có nhiều mâu thuẫn do có nhiều bất đồng trong quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, không quan tâm đến nhau khiến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài khiến hai bên cùng mệt mỏi, bà P và ông Ph đều không muốn tiến tới quan hệ hôn nhân, để ổn định cuộc sống cả hai bên đều muốn Tòa án không công nhận bà P và ông Ph là vợ chồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh tại Ủy ban nhân dân phường Cát Lái, Quận 2 nơi bà P và ông Ph cư trú để làm rõ bà P và ông Ph có đăng ký kết hôn hay không. Theo kết quả trả lời xác minh của Ủy ban nhân dân phường Cát Lái, Quận 2 cho biết không có thông tin về việc bà P và ông Ph có đăng ký kết hôn.

Từ những nhận định trên, căn cứ Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì yêu cầu của bà P về việc không công nhận quan hệ vợ chồng với ông Ph là có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 là phù hợp với tài liệu chứng cứ cũng như quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

[3] Về con chung: Bà P và ông Ph có 02 con chung tên Lê Thị Hồng N (nữ) sinh ngày 17/10/2001 và Lê Đông H (nam) sinh ngày 07/02/2007, bà P và ông Ph thỏa thuận ông Ph sẽ trực tiếp nuôi con chung là trẻ Lê Thị Hồng N cho đến khi trẻ N trưởng thành, bà P sẽ trực tiếp nuôi con chung là trẻ Lê Đông H cho đến khi trẻ H trưởng thành, hai bên thống nhất không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: kng yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bà Đào Thị Tuyết P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khon 1 Điều 14, Điều 51, Điều 116, Điều 117 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đào Thị Tuyết P. Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Đào Thị Tuyết P và ông Lê Hồng Ph.

2. Về con chung:

Giao trẻ Lê Thị Hồng N (nữ) sinh ngày 17/10/2001 cho ông Lê Hồng Ph trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trẻ N trưởng thành.

Giao trẻ Lê Đông H (nam) sinh ngày 07/02/2007 cho bà Đào Thị Tuyết P trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trẻ H trưởng thành.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Đào Thị Tuyết P và ông Lê Hồng Ph không phải cấp dưỡng nuôi con.

Các bên thi hành trực tiếp hoặc tại cơ quan có thẩm quyền về Thi hành án dân sự.

Bà Đào Thị Tuyết P và ông Lê Hồng Ph được quyền đến thăm, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì quyền lợi của con, người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi.

Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trưc tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo qui định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo qui định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết trong vụ án này.

5. Về án phí: Bà Đào Thị Tuyết P phải chịu án phí hôn nhân gia đình là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà P đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số AA/2017/0016737 ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 2. Bà P đã nộp đủ án phí. Ông Lê Hồng Ph không phải chịu án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt, niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HN-ST ngày 30/09/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:26/2019/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về