Bản án 266/2018/HSST ngày 21/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 266/2018/HSST NGÀY 21/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21/11/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 268/2018/HSST ngày 26/10/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 273/2018/QĐXXST-HS ngày 08/11/2018 đối với bị cáo:

Họ tên: Trịnh Văn M; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1990; tại: Điện Biên; Nơi ĐKHKTT: Đội 19, xã N, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn T và bà Nguyễn Thị L; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị cơ quan nhà nước xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án xét xử lần nào; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 15/8/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Nguyên đơn dân sự: Trường X huyện Điện Biên

Người đại diện theo pháp luật của Nguyên đơn dân sự: Ông Đặng Anh M; SN 1961; Hiệu trưởng trường X huyện Điện Biên (Có mặt)

Người làm chứng: Ông Trần Văn Th; SN: 1973; địa chỉ: Đội 24, xã N, huyện Điện Biên; Anh Nguyễn Xuân Tr; SN: 1990; địa chỉ: Đội 14, xã N, huyện Điện Biên; anh Bùi Như Kh; SN: 1996; địa chỉ: Đội 6, xã Th, huyện Điện Biên

(Anh Tr có mặt, anh Th, anh Kh vắng không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong đêm ngày 11/8/2018, Trịnh Văn M đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 11/8/2018, Trịnh Văn M mang theo 01 con dao nhọn và 01 vỏ bao xác rắn đi bộ từ nhà về phía khu vực Bản Phủ, xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên để xem ai có sơ hở sẽ trộm cắp tài sản. Khi đến khu vực đường đi vào trung tâm UBND xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên cách đường Quốc lộ 279 khoảng 100 mét, M thấy phòng Tin học số 01 của Trường X huyện Điện Biên không đóng cửa sổ, bên trong có nhiều màn hình máy vi tính và không có người trông coi. Quan sát trên tường rào xây có 01 lỗ hổng M đã chui qua tường vào trong trường rồi đi bộ đến cuối dẫy nhà, ngay đó là phòng máy vi tính. Do cửa sổ không chốt nên M mở cửa sổ rồi bám vào song sắt trên ô cửa sổ đứng lên gờ của bờ tường nhà rồi lần lượt luồn tay qua song sắt của 03 cửa sổ phía sau phòng Tin học rồi dùng dao cắt đứt dây cáp tín hiệu nối màn hình với cây máy tính lấy được 3 chiếc màn hình máy vi tính rồi cất giấu vào bao xác rắn mang theo rồi đi ra ngoài đường theo lối đã vào và mang cất giấu ở sau chiếc máy cắt sắt cạnh cửa nhà anh Trần Văn Th, ở đội 24, xã N, huyện Điện Biên.

Lần 2: M tiếp tục mang vỏ bao xác rắn quay trở lại phòng Tin học 01 để trộm cắp.Trên đường M nhặt thêm 01 vỏ bao xác rắn ở chân tường rào nhà trường mang theo để đựng tài sản trộm cắp. M đi vào theo lối cũ rồi đi ra phía trước phòng tin học số 01, M trèo qua lan can hành lang, đi đến cửa ra vào thứ 1 của phòng tin học, dùng thanh sắt mang theo luồn qua ổ khóa Việt Tiệp cạy phá khóa cửa rồi vứt ổ khóa ra phía bồn hoa sân trường, mở cửa vào phòng rồi khép cửa lại. Khi vào trong phòng, M đi đến cửa ra vào thứ hai mở then chốt cài cửa ra nhằm mục đích nếu bị phát hiện sẽ dễ dàng chạy thoát. Sau đó, M tháo dây cắm điện, dùng dao cắt đứt 03 dây cáp nối màn hình với cây máy tính, lần lượt lấy 03 cây máy tính cùng 03 bàn phím và 03 chuột máy vi tính cho vào 02 bao tải xác rắn, M bỏ lại thanh sắt ở phòng Tin học 01 và mang 02 bao xác rắn chứa tài sản lấy được theo lối cũ ra ngoài.

Khoảng hơn 01 giờ ngày 12/8/2018, M mang số tài sản trên đến chỗ để 03 màn hình máy vi tính phía sau máy cắt sắt cạnh cửa nhà Th cho 03 màn hình vào bao xác rắn có chứa 01 cây máy tính. Sau đó, M gọi Th dậy mở cửa và hỏi Th có mua máy tính không? Th không mua và đóng cửa đi ngủ tiếp. M dùng mảnh vải bạt màu xanh có sẵn ở đó che đậy số tài sản trộm cắp được lại mục đích để khi trời sáng sẽ ra lấy mang đi tiêu thụ, sau đó M đi về nhà ngủ. Khoảng 08 giờ cùng ngày, M đi bộ đến nhà Th lấy tài sản trộm cắp để mang đi bán, nhưng khi đi đến khu vực cổng trường X huyện Điện Biên thì bị cơ quan Công an huyện Điện Biên đang làm nhiệm vụ tại trường triệu tập. M đã dẫn tổ công tác Công an huyện Điện Biên đến nhà Th chỉ nơi cất giấu số tài sản đã trộm cắp nhưng không tìm thấy.

Khoảng 21 giờ ngày 13/8/2018, anh Bùi Như Kh đi từ thành phố Điện Biên Phủ về đến khu vực đường rẽ vào nghĩa trang 1, xã Thanh An, huyện Điện Biên, nhìn thấy một nam thanh niên đứng gần xe mô tô, bên cạnh có 03 bao xác rắn. Khi thấy Kh đi đến gần, người thanh niên lên xe mô tô nổ máy bỏ đi và để lại 03 bao tải xác rắn. Kh thấy biểu hiện bất thường của người thanh niên nên đã gọi điện thoại báo tin cho Công an xã Thanh An và Công an huyện Điện Biên đến hiện trường kiểm tra và niêm phong thu giữ 03 bộ máy vi tính có đặc điểm phù hợp với số tài sản do M trộm cắp của trường X huyện Điện Biên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 38; số 39/KL-ĐG ngày 14/8/2018 và số 48/KL- ĐG ngày 19/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên kết luận tài sản bị cáo Trịnh Văn M trộm cắp gồm: 03 màn hình vi tính giá trị: 9.771.000đ; 03 cây máy vi tính giá trị: 10.322.000đ; 03 bàn phím vi tính giá trị: 774.000đ; 02 con chuột máy vi tính giá trị: 320.000đ; ổ khóa Việt - Tiệp giá trị:

63.000đ; 01 con chuột máy vi tính giá trị: 160.000đ; 06 dây cáp nối từ cây máy vi tính lên màn hình giá trị: 300.000đ. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là: 21.187.000đ và làm thiệt hại là: 523.000đ. Tổng giá trị là: 21.710.000đ.

Tại Phiên tòa Trịnh Văn M một lần nữa đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số 212/CT-VKSĐB ngày 25/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Trịnh Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173/Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa trong lời luận tội đại diện VKSND huyện Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX áp dụng Khoản 1 Điều 173/BLHS; điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; điểm g Khoản 1 Điều 52/BLHS. Xử phạt bị cáo từ 21 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 523.000đ sung Ngân sách Nhà nước. Tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án theo điểm a Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm c Khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Nguyên đơn dân sự đã nhận lại tài sản, phần thiệt hại về tài sản Nguyên đơn dân sự đã tự khắc phục tại phiên tòa Nguyên đơn dân sự đề nghị bị cáo phải bồi thường số tiền 523.000đ sung Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng, không có ý kiến tự bào chữa. Bị cáo và Nguyên đơn dân sự không có ý kiến tranh luận với bản Luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên đã thực hiện đều hợp pháp Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Trong đêm ngày 11/8/2018, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản là Trường X huyện Điện Biên, Trịnh Văn M đã 02 lần dịch chuyển tài sản ra khỏi sự quản lý của chủ sở hữu. Cụ thể lần 1: Luồn tay qua ô cửa sổ dùng dao cắt dây cáp, lấy đi 03 màn hình máy vi tính rồi mang đi cất giấu khu vực nhà anh Trần Văn Th. Lần 2: Dùng thanh sắt phá khóa cửa chính của phòng tin học tiếp tục lấy đi 03 cây máy tính cùng 03 bàn phím và 03 chuột máy vi tính và mang các tài sản này đến nhà anh Trần Văn Th cất giấu nhằm mục đích mang đi tiêu thụ lấy tiền chi tiêu cá nhân và mua ma túy. Sáng ngày 12/8/2018 khi bị cáo dẫn cán bộ Điều tra đến chỗ bị cáo cất giấu tài sản trộm cắp thì không thấy. Số tài sản này sau đó được anh Bùi Như Kh phát hiện báo cho cơ quan Điều tra thu giữa trả lại cho chủ sở hữu tài sản. Việc bị cáo không tiêu thụ được tài sản là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã hoàn thành từ khi bị cáo dịch chuyển tài sản ra khỏi phòng tin học của Trường X huyện Điện Biên. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt và làm thiệt hại là: 21.710.000đ (trong đó bị cáo chiếm đoạt 21.187.000đ; làm thiệt hại: 523.000đ). Với hành vi và giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt và làm hư hỏng thì bị cáo đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại Khoản 1 Điều 173/BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của bị cáo.

 [3]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cơ quan, tổ chức được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn xã Noong Hẹt nói riêng và huyện Điện Biên nói chung hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý trước pháp luật để làm bài học cho bị cáo và để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, mỗi lần trộm cắp đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (phạm tội 02 lần trở lên) theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52/BLHS. Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội và để bị cáo có điều kiện cai nghiện matúy.

 [5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ theo quy định tại Khoản 5 Điều 173/BLHS nhưng bị cáo là người nghiện ma túy ngoài làm ruộng bị cáo không có thu nhập nào khác, tài sản không có gì nên không có khả năng thi hành, do vậy HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [6]. Về trách nhiệm dân sự; Tài sản bị cáo trộm cắp đã được Cơ quan Điều tra thu giữ và trao trả cho trường X huyện Điện Biên. Bị cáo gây thiệt hại 523.000đ là tài sản Nhà nước, Người đại diện theo pháp luật của Nguyên đơn dân sự yêu cầu sung Ngân sách Nhà nước số tiền này theo quy định tại Khoản 1 Điều 48/BLHS; Điều 584; Điều 589/Bộ luật Dân sự là có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [7]. Về vật chứng: Con dao bị cáo dùng để phạm tội bị cáo làm rơi cơ quan Điều tra không truy tìm được. 01 thanh sắt; 03 bao xác rắn bị thu giữ là vật dùng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

 [8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 136/BLTTHS và điểm a Khoản 1 Điều 23; điểm a Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52/BLHS.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2. Xử phạt bị cáo Trịnh Văn M 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là 15/8/2018.

3. Các vấn đề khác:

3.1. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Khoản 1 Điều 48/BLHS; Điều 357; Điều 468; Điều 584; Điều 589/BLDS

- Buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 523.000đ sung Ngân Sách Nhà nước.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu bị cáo không tự nguyện thi hành đối với khoản tiền bồi thường thì phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành án được xác định theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3.2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy 01 thanh sắt; 03 bao xác rắn.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2018).

3.3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS và điểm a Khoản 1 Điều 23; điểm a Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trịnh Văn M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí Dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, Nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/11/2018).

Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự bị cáo cho người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự biết:

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 266/2018/HSST ngày 21/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:266/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về