Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 29/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 27/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 5 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 329/2017/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2017, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/4/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2018/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị K – sinh năm 1998

Địa chỉ: Tổ 15, Ấp 1A, xã X.H, huyện X.L, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Trần Văn Đ – sinh năm 1995

Địa chỉ: Tổ 9, Ấp 1, xã P.Đ, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai.

(Chị K có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, anh Đ vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/10/2017 và lời khai trong quá trình thụ lý hòa giải nguyên đơn chị Trần Thị K trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị K và anh Đ tự nguyện kết hôn, sống chung từ cuối năm 2015 đến ngày 22/4/2016 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P.Đ, huyện T.P và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo luật định. Anh chị chung sống hạnh phúc đến tháng 8/2016 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, anh Đ không có trách nhiệm đối với chị và con chung, ngoài ra anh Đ còn mâu thuẫn với cha mẹ chị K. Hai bên gia đình anh chị đã nói chuyện hòa giải để anh chị đoàn tụ gia đình nhưng không thành nên từ tháng 8/2016, anh chị đã không còn chung sống. Chị nhận thấy tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Trần Văn Đ.

- Về con chung: Chị K trình bày có 01 (một) con chung là cháu Trần Anh K – sinh ngày 05/7/2016. Khi ly hôn, chị yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung,không yêu cầu anh Đ cấp  dưỡng.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị K trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, bị đơn anh Trần Văn Đ trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Đ thừa nhận lời trình bày của chị K về việc sống chung và đăng ký kết hôn như trên là đúng. Vợ chồng sống chung từ năm 2015 đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, sau đó đến tháng 8/2016 chị bỏ về nhà mẹ ruột tại xã X.H, huyện X.L sinh sống cho đến nay. Anh đã nhiều lần gặp chị để hòa giải đoàn tụ mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành, nên anh chị đã không còn chung sống cho đến nay. Anh nhận thấy bản thân không làm gì sai, hơn nữa con còn nhỏ nên anh không đồng ý ly hôn với chị Trần Thị K.

- Về con chung: Anh Đ trình bày có 01 (một) con chung là cháu Trần Anh K – sinh ngày 05/7/2016, do chị K trực tiếp nuôi dưỡng từ khi anh chị không còn chung sống đến nay. Khi ly hôn, anh Đ ý giao con cho chị tiếp tục nuôi dưỡng, tạm thời anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản, nợ chung: Anh Đ trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyên đơn đã giao nộp kèm theo đơn khởi kiện những tài liệu, chứng cứ sau đây: Chứng minh nhân dân và Sổ hộ khẩu của nguyên đơn (Bản sao), Giấy chứng nhận kết hôn (Bản sao), Trích lục khai sinh con chung (Bản sao), Đơn xác nhận hộ khẩu đối với bị đơn. Bị đơn không giao nộp tài liệu, chứng cứ. Tòa án đã tiến hành sao gửi các tài liệu chứng cứ trên cho bị đơn.

Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ sau: Bản tự khai của các đương sự, Đơn đề nghị Tòa án hỗ trợ, Đơn yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, Đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân và nuôi con chung của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú và Tòa án nhân dân huyện X.L, tỉnh Đồng Nai. Tòa án đã tiến hành thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ cho các đương sự.

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không thay đổi, bổ sung ý kiến, đề nghị của mình; anh Đ không có yêu cầu phản tố. Các đương sự không giao nộp, bổ sung thêm tài liệu chứng cứ nào khác, không yêu cầu triệu tập đương sự, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Chị K có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đồng thời bị đơn anh Đ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của chị K, cho chị K ly hôn với anh Đ. Về con chung: Giao cháu Trần Anh K – sinh ngày 05/7/2016 cho chị K tiếp tục nuôi dưỡng, do chị K không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Đ. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Về án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Bị đơn anh Trần Văn Đ cư trú tại xã P.Đ, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Chị Trần Thị K khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Đ, tranh chấp về nuôi con chung. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; xác định tư cách đương sự chị K là người khởi kiện nên là nguyên đơn, anh Đ là bị đơn được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị K và anh Đ được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P.Đ, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, vào sổ cấp giấy số 17 ngày 22/4/2016. Như vậy, hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Chị K và anh Đ đều thừa nhận có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh chị không tin tưởng nhau, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cự cãi, ngoài ra anh Đ còn mâu thuẫn với cha mẹ chị K. Anh chị đã không còn sống chung từ tháng 8/2016 cho đến nay, đã tự hòa giải đoàn tụ nhưng không thành. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân tại địa phương cũng phù hợp với lời khai các đương sự.

Anh Đ có ý kiến bản thân vẫn còn tình cảm yêu thương với chị K nên anh không đồng ý ly hôn, bên cạnh đó anh đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên trong quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án đã triệu tập hợp lệ để tiến hành hòa giải nhiều lần, mở phiên tòa xét xử nhưng chỉ có chị K có mặt, anh Đ vắng mặt không có lý do, qua đó thể hiện anh Đ có thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến chị K, không có thiện chí hòa giải đoàn tụ gia đình.

Từ những phân tích như trên, có đủ cơ sở để xác định, anh Đ đã không còn tình cảm thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc đối với chị K; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị K, cho chị được ly hôn với anh Đ.

- Về nuôi con chung: Chị K yêu cầu được nuôi dưỡng 01 (một) con chung là cháu Trần Anh K – sinh ngày 05/7/2016, chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con do anh Đ hiện có thu nhập không ổn định. Tại lời khai của anh Đ trong quá trình tiến hành tố tụng, anh Đ ý giao con chung cho chị K nuôi dưỡng, tạm thời anh không phải cấp dưỡng nuôi con. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ về nuôi con chung tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện: Từ sau khi anh chị không còn sống chung từ tháng 8/2016, con chung (dưới 36 tháng tuổi) đang do chị K trực tiếp nuôi dưỡng, bản thân chị K đủ khả năng nuôi dưỡng con chung. Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu nuôi con chung của chị K là có cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận giao con chung cho chị K nuôi dưỡng, tạm thời miễn cho anh Đ nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung chưa thành niên, các đương sự có quyền xin thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[4] Xét quan điểm của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 24; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về yêu cầu khởi kiện: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị K.

- Về hôn nhân: Cho chị K được ly hôn với anh Trần Văn Đ.

- Về nuôi con chung: Giao 01 (một) con chung là cháu Trần Anh K – sinh ngày 05/7/2016 cho chị K được nuôi dưỡng, tạm thời miễn cho anh Đ nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung chưa thành niên, các đương sự có quyền xin thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

2. Về án phí: Chị Trần Thị K phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị K đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 007228 ngày 06/10/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai được chuyển thành án phí.

3. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 29/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:27/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về