Bản án 27/2019/HNGĐ-ST ngày 16/09/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 27/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 16 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 82/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị L, sinh năm 1985; Trú tại: thôn Vịnh Th, xã Cảnh H, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Chỗ ở hiện nay: thôn Tân Th, xã Cảnh H, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

 2. Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1975; Trú tại: Vịnh Th, xã Cảnh H, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Tại phiên tòa nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/6/2019 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hà Thị L trình bày: chị và anh Nguyễn Ngọc S có thời gian tìm hiểu và hai người tự nguyện đi đến kết hôn, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Cảnh H, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình vào ngày 15/10/2004. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống tại nhà mẹ đẻ của anh S, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và hòa thuận, tuy nhiên đến đầu năm 2015 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, lý do vợ chồng không có sự tôn trọng lẫn nhau, không tin tưởng nhau, anh S thường xuyên uống rượu, không quan tâm đến cuộc sống gia đình, thậm chí còn có hành vi bạo lực đối với vợ con, đã nhiều lần gia đình hai bên và chính quyền địa phương khuyên bảo nhưng anh S vẫn không thay đổi, vì vậy đến cuối năm vợ chồng sống ly thân cho đến nay, quá trình sống ly thân không ai quan tâm đến ai, ai lo và biết công việc nấy. Vì vậy chị thấy rằng cuộc sống hôn nhân giữa chị và anh S thực sự không có hạnh phúc và không thể kéo dài được nữa, nên chị mong muốn được ly hôn để ổn định cuộc sống riêng của mình.

Quá trình chung sống giữa chị và anh S có hai con chung Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 13/08/2005 và Nguyễn Thế A, sinh ngày 03/02/2011, hiện tại các con đang ở cùng chị, nên sau khi ly hôn chị có nguyện vọng muốn được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con và không yêu cầu anh S đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con, vì theo chị anh S hiện tại không có công việc, không có thu nhập nên không thể có khả năng cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Tại phiên tòa chị khẳng định giữa chị và anh S không có tài sản cũng như khống có bất cứ khoản nợ chung nào.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán cũng như của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến quá trình xét xử đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về tình cảm áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn với anh S; Về con chung: áp dụng Điều 58, 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình giao các con chung của vợ chồng cho chị L chăm sóc, nuôi dưỡng, không yêu cầu anh S đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản và nợ chung không xem xét.

Quá trình giải quyết vụ án, thông qua Ủy ban nhân dân xã Cảnh H, Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho anh S; Thông báo phiên hòa giải và giấy triệu tập anh S đến Tòa án để ghi nhận ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị L nhưng anh S không đến Tòa án và cũng không có văn bản ghi ý kiến của mình. Sau khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã tiến hành niêm yết tại UBND xã Cảnh H, đồng thời đã gửi giấy triệu tập hợp lệ cho anh S. Theo kết quả xác minh ngày 31/7/2019 bà Nguyễn Thị Đ là mẹ đẻ của anh S cho biết bà có nhận được các văn bản của Tòa án và bà đã trực tiếp thông báo cho anh S được biết, nhưng do điều kiện công việc nên anh S không thể ở nhà để giải quyết vụ án mà có ý kiến đề nghị Tòa án giải quyết cho anh và chị L được ly hôn.Tại phiên tòa, vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh S, đây là tranh chấp về ly hôn. Anh S có hộ khẩu thường trú tại xã Cảnh H, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình nên Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch thụ lý, giải quyết vụ án là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Ngọc S vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Căn cứ quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh S.

[2] Về nội dung: Hội đồng xét xử thấy:

Quan hệ hôn nhân: hôn nhân giữa chị L và anh S là tự nguyện, có đăng ký kết hôn, nên được công nhận hôn nhân hợp pháp. Chị L xin ly hôn với anh Sơn vì nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử xét thấy từ sau khi vụ án được thụ lý và trong suốt quá trình giải quyết, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ đối với anh S đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng anh S vẫn không có mặt. Điều này chứng tỏ anh S không có trách nhiệm đối với hôn nhân của mình, không có thiện chí trong việc giải quyết mâu thuẫn gia đình và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do vậy, việc chị L khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn với anh S là có cơ sở, nên căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, xử cho chị L được ly hôn anh S.

Quan hệ con chung: xét thấy hiện tại các con chung của vợ chồng đang còn nhỏ, kể từ khi vợ chồng sống ly thân đều do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng. Phía anh S đi làm ăn không có nơi cư trú ổn định. Vì vậy cần áp dụng Điều 58, 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình giao các con chung cho chị L chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp đồng thời cũng đúng theo nguyện vọng của các con. Việc chị L không yêu cầu anh S đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung vì lý do anh S hiện tại không có công việc ổn định, không có thu nhập là hoàn toàn tự nguyện, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Quan hệ tài sản và nợ chung: Chị L thừa nhận không có, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị L phải nộp án phí ly hôn để sung vào công quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Ngọc S.

2. Về quan hệ hôn nhân: cho chị Hà Thị L ly hôn anh Nguyễn Ngọc S.

3. Về quan hệ con chung: Giao các con chung Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 13/8/2005 và Nguyễn Thế A, sinh ngày 03/02/2011 cho chị Hà Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Hiện tại anh Nguyễn Ngọc S không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có nguyền, nghĩa vụ qua lại thăm con, không ai được ngăn cản.

4. Về tài sản và nợ chung: không xem xét.

5. Về án phí sơ thẩm:

Án phí ly hôn 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị L phải nộp nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001369 ngày 27/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình để sung vào công quỹ nhà nước.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 16/9/2019). Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HNGĐ-ST ngày 16/09/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:27/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về