Bản án 275/2018/HNGĐ-ST ngày 25/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 275/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 7 năm 2018, tại Hội trường Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 175/2018/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

a/ Nguyên đơn: Chị Trần Nguyễn Đai L, sinh năm: 1987; HKTT: khối 2, phường V, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; tạm trú: thôn T, xã Đ, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (có mặt)

b/ Bị đơn: Anh Lê Cao T, sinh năm: 1985; địa chỉ: khối 2, phường V, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 08/5/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn, chị Trần Nguyễn Đai L trình bày:

Chị và anh Lê Cao T kết hôn với nhau vào ngày 26/10/2009 có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn V (nay là phường V, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng và được sự đồng ý của hai bên gia đình.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T thường xuyên vô cớ đánh đập, hành hạ chị làm ảnh hưởng đến cuộc sống của chị và các con. Vợ chồng không có tiếng nói chung nên đến đầu tháng 5/2018, chị L đã dẫn hai con về nhà mẹ đẻ ở xã Điện Phương sinh sống. Trong thời gian chị sống ở đây, vài lần anh T vào quậy phá, đánh đập con gây ảnh hưởng đến tâm lý các con. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể tiếp tục kéo dài nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Lê Cao T.

Về con chung: Có 02 con chung

1/ Lê Cao Gia H Sinh ngày 20/11/2009

2/ Lê Trần Mây P Sinh ngày 25/11/2013

Hiện nay các con đang ở cùng chị L. Khi ly hôn chị có nguyện vọng nuôi cả hai con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung

Về tài sản chung và nợ chung: không có

Tại bản tự khai ngày 23/5/2018 và các lời khai tiếp theo, bị đơn anh Lê Cao T trình bày:

Về thời gian và địa điểm đăng ký kết hôn, anh hoàn toàn thống nhất với lời trình bày của chị L. Về nguyên nhân mâu thuẫn là do bản thân anh có lỗi với vợ, anh thừa nhận có đánh đập vợ nhiều lần, có lần anh đánh vợ gây thương tích phải nhập viện. Có vài lần chị L cũng đánh lại anh, chị L không cho anh ngủ chung mà yêu cầu anh kiếm bồ nên vợ chồng có cãi vã nhau. Đến đầu tháng 5/2018 chị L dẫn hai con về nhà mẹ sống. Nay chị L nộp đơn ly hôn, anh thấy mình đã sai, còn thương vợ và không muốn con cái xa cha hoặc mẹ nên không đồng ý ly hôn

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung

1/ Lê Cao Gia H Sinh ngày 20/11/2009

2/ Lê Trần Mây P Sinh ngày 25/11/2013

Hiện nay các con đang ở cùng chị L. Nếu phải ly hôn anh đồng ý giao cả hai con cho chị L nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: không có

Đại diện VKSND thị xã Điện Bàn phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

Quá trình Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng quy định của BLTTDS. Nguyên đơn chấp hành tốt quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án Viện kiểm sát cho rằng: việc mâu thuẫn của các đương sự đã trầm trọng, các bên đương sự đã tự sống ly thân nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Về con chung đề nghị giao cháu Lê Cao Gia H; Sinh ngày 20/11/2009 và Lê Trần Mây P; Sinh ngày 25/11/2013 cho chị Trần Nguyễn Đai L tiếp tục trông nom, chăm sóc và giáo dục đến tuổi trưởng thành. Chị Trần Nguyễn Đai L không yêu cầu anh Lê Cao T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: không có

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa nguyên đơn chị Trần Nguyễn Đai L và bị đơn anh Lê Cao T. Bị đơn có HKTT tại địa chỉ: khối 2, phường Vĩnh Điện, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39  Bộ Luật tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Lê Cao T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Trần Nguyễn Đai L và anh Lê Cao T có đăng ký kết hôn đúng theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh T là người bạo lực, nhiều lần vô cớ đánh đập chị L. Hiện tại chị đã dọn về nhà mẹ đẻ, không sống cùng anh T nữa. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên cương quyết xin ly hôn với anh T.

Anh T thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng là do lỗi của anh nhưng không đồng ý ly hôn vì vẫn còn tình cảm với vợ, mong muốn vợ chồng về đoàn tụ để con cái không phải xa cha mẹ. Tuy nhiên anh nhiều lần không đến Tòa án làm việc, chứng tỏ anh là người coi thường pháp luật, cố tình trốn tránh, không coi trọng cuộc hôn nhân này. Hiện tại, vợ chồng đã sống ly thân cho thấy rằng tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị Trần Nguyễn Đai L được ly hôn anh Lê Cao T là phù hợp.

[3] Về nuôi con chung: Chị L và anh T có 02 con chung tên là Lê Cao Gia H Sinh ngày 20/11/2009 và Lê Trần Mây P; Sinh ngày 25/11/2013. Hiện cả hai cháu đang sống cùng chị L. Khi ly hôn chị L có nguyện vọng nuôi cả 2 con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu Lê Cao Gia Huy có nguyện vọng sống cùng mẹ.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện tại vợ chồng chị L đã sống ly thân, các con đang sống cùng chị L và có nguyện vọng được ở với mẹ. Các cháu đang ở độ tuổi thiếu niên nên cần sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ. Tại phiên hòa giải ngày 13/6/2018, anh T đồng ý giao cả hai con cho chị L nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo cuộc sống tốt nhất về mọi mặt cho con chung, Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ thống nhất giao con chung là Lê Cao Gia H; Sinh ngày 20/11/2009 và Lê Trần Mây P; Sinh ngày 25/11/2013 cho chị Trần Nguyễn Đai L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến đủ 18 tuổi và đủ khả năng lao động. Chị Trần

Nguyễn Đai L không yêu cầu anh Lê Cao T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: không có

Về án phí: Chị Trần Nguyễn Đai L là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 54, Điều 56; Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật HN&GĐ; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trần Nguyễn Đai L được ly hôn anh Lê Cao T.

2/ Về con chung: có 02 con chung

Lê Cao Gia H; Sinh ngày 20/11/2009

Lê Trần Mây P; Sinh ngày 25/11/2013

Giao con chung là Lê Cao Gia H; Sinh ngày 20/11/2009 và Lê Trần Mây P;

Sinh ngày 25/11/2013 cho chị Trần Nguyễn Đai L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến đủ 18 tuổi và đủ khả năng lao động. Chị Trần Nguyễn Đai L không yêu cầu anh Lê Cao T cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Lê Cao T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn, không ai được cản trở.

3/ Về tài sản chung và nợ chung: không có

4/ Về án phí: Chị Trần Nguyễn Đai L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu số 0009050 ngày 16/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Điện Bàn. Chị Trần Nguyễn Đai L đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 275/2018/HNGĐ-ST ngày 25/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:275/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về