Bản án 276/2018/ST-HNGĐ ngày 30/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 276/2018/ST-HNGĐ NGÀY 30/03/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân sơ thẩm thụ lý số 953/2017/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/3/2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phạm Duy T, sinh năm 1982

Hộ khẩu thường trú: 23 đường B, phường T, quận T, Thành phố H. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

Bị đơn: Bà Tsằn Chi K, sinh năm 1982

Hộ khẩu thường trú: 23 đường B, phường T, quận T, Thành phố H. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Phạm Duy T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông T và bà Tsằn Chi K có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 10, thành phố M, tỉnh T theo Giấy chứng nhận kết hôn số 102, quyển số 01/2018 ngày 28/11/2008.

Cuộc sống chung vợ chồng thời gian đầu có hạnh phúc, mâu thuẫn bắt đầu phát sinh từ đầu năm 2016, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên gây gỗ, cãi vả về cách chăm lo con cái, chi tiêu tiền bạc trong gia đình khiến đời sống hôn nhân luôn căng thẳng, mệt mỏi. Hai bên cũng đã ngồi lại tìm phương án giải quyết nhưng cũng không cải thiện được làm cho cuộc sống gia đình căng thẳng, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và ông T cảm thấy cuộc sống rất ngột ngạt không thể chịu đựng được. Ông T và bà K sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt, đời sống chung không thể kéo dài nên ông T yêu cầu ly hôn với bà Tsằn Chi K để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Ông T và bà K có 02 con chung tên Phạm Gia T, sinh ngày01/9/2009 và Phạm Gia T, sinh ngày 21/5/2014. Ông T đồng ý giao 02 con chung cho bà K trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con 6.000.000 đồng/tháng/02 con.

Tại bản tự khai ngày 18/01/2018, ông T bổ sung ý kiến: ông đồng ý cấp dưỡng nuôi hai con là 15.000.000 đồng/tháng/02 con và mỗi năm tăng thêm 5%.

Việc cấp dưỡng được thực hiện vào ngày 30 hàng tháng, bắt đầu từ ngày 30/4/2018.

Về tài sản chung: Ông T xác nhận hai bên tự thỏa thuận và không yêu cầu tòa án giải quyết. Về nợ chung: Ông T xác nhận không có.

Bị đơn, bà Tsằn Chi K trình bày: Bà K xác nhận quá trình kết hôn, mâu thuẩn vợ chồng đúng như lời trình bày của ông T. Trong thời gian chung sống bà phát hiện ông T đã có hành vi ngoại tình nhưng vì các con còn nhỏ và để các con có đầy đủ tình cảm của cha mẹ nên bà vẫn bỏ qua lỗi lầm của ông T, bà K không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Bà K xác nhận có 02 con chung tên Phạm Gia T, sinh ngày 01/9/2009 và Phạm Gia T, sinh ngày 21/5/2014. Trường hợp ly hôn bà K yêu cầu được nuôi 02 con chung và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con 15.000.000 đồng/tháng/02 con và mỗi năm tăng thêm 5% .

Về tài sản chung: Bà K xác nhận hai bên tự thỏa thuận và không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà K xác nhận không có.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn ông Phạm Duy T, bị đơn bà Tsằn Chi K có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận T phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử như sau:

* Về tố tụng:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trong quá trình giải quyết vụ án về thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định đúng quan hệ tranh chấp, xác định tư cách pháp lý, và mối quan hệ của những người tham gia tố tụng cũng như thời hạn gửi các văn bản tố tụng, hồ sơ Viện kiểm sát nghiên cứu.

- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

- Về chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

* Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Phạm Duy T được ly hôn bà Tsằn Chi K.

- Về con chung: Ông T và bà K có 02 con chung tên Phạm Gia T, sinh ngày 01/9/2009 và Phạm Gia T, sinh ngày 21/5/2014. Sau khi ly hôn ông T đồng ý giao 02 con chung cho bà K trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và ông T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con số tiền 15.000.000 đồng/tháng/02 con, tăng thêm 5% sau mỗi năm cho đến khi các con lần lượt đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Ông T và bà K tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Về nợ chung: Ông T và bà K khai không có.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của ông Phạm Duy T đối với bà Tsằn Chi K là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình. Bị đơn bà Tsằn Chi K có hộ khẩu thường trú tại quận T, do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận T theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

 [2] Ông Phạm Duy T và bà Tsằn Chi K có đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại phiên tòa, do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng với thủ tục được quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [3] Về nội dung: Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn số 102, quyển số 01/2018 ngày 28/11/2008 tại Ủy ban nhân dân Phường 10, thành phố M thể hiện hôn nhân giữa ông Phạm Duy T và bà Tsằn Chi K là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

 [4] Về yêu cầu xin ly hôn của ông T, Hội đồng xét xử xét thấy trong thời gian chung sống vợ chồng không hạnh phúc, mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng, ông T đã cố gắng để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả, mâu thuẫn kéo dài tới nay. Vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau nên tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Ngoài lời khai bà K không đồng ý ly hôn, bà K không đưa ra biện pháp cải thiện tình cảm vợ chồng để hàn gắn xây dựng hạnh phúc gia đình. Từ năm 2016 đến nay ông T và Kín sống ly thân, trong thời gian ly thân vợ chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt, người nào chỉ biết biết bổn phận người đó, bỏ mặc người kia sống ra sao thì sống. Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng giữa ông T và bà K không còn, hiện tại ông bà đã ly thân, ông T làm ăn xa nhà và bà K cũng không có động thái nào để hàn gắn hạnh phúc gia đình nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Duy T, phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì thực tế tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được thì không nhất thiết phải kéo dài cuộc sống vợ chồng nữa, hiện cả hai đã sống ly thân không có đời sống vợ chồng; Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Phạm Duy T đối với bà Tsằn Chi K.

- Về quan hệ con chung:

Xét, nguyện vọng của bà K được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Phạm Gia T, sinh năm 2009 và Phạm Gia T, sinh năm 2014 và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con 15.000.000đồng/tháng/2 bé và tăng thêm 5% sau mỗi năm. Ngày 18/01/2018 ông T có bổ sung lời khai là ông đồng ý giao hai con chung cho bà K trực tiếp nuôi dưỡng và đồng ý cấp dưỡng 15.000.000 đồng/tháng/2 con và tăng 5% sau mỗi năm nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao hai trẻ Phạm Gia T, sinh năm 2009 và Phạm Gia T, sinh năm 2014 cho bà Tsằn Chi K trực tiếp nuôi dưỡng; Ông T cấp dưỡng nuôi con 15.000.000 đồng/tháng/2 con và tăng 5% sau mỗi năm cho đến khi hai trẻ Gia T và Gia T đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng được thực hiện vào ngày 30 hàng tháng, bắt đầu từ ngày 30/4/2018.

- Về tài sản chung: Ông T và bà K tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

- Về nợ chung: Ông T và bà K khai không có nên Tòa án không xem xét. [5] Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Án phí hôn nhân gia đình: Nguyên đơn ông Phạm Duy T phải nộp 300.000 (Ba trămngàn) đồng tiền án phí hôn nhân gia đình.

- Án phí cấp dưỡng nuôi con: Ông T phải nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014); Luật án phí lệ phí 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Tuyên xử:

1. Chaáp nhaän yeâu caàu khôûi kieän cuûa ông Phạm Duy T.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Phạm Duy T ñöôïc ly hoân bà Tsằn Chi K.

Quan hệ hôn nhân giữa ông Phạm Duy T và bà Tsằn Chi K theo Giấy chứng nhận kết hôn số 102, quyển số 01/2018 do Ủy ban nhân dân Phường 10, thành phố M, tỉnh T cấp ngày 28/11/2008 chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2. Về quan hệ con chung: Giao trẻ Phạm Gia T, sinh năm 2009 và Phạm Gia T, sinh năm 2014 cho bà Tsằn Chi K trực tiếp nuôi dưỡng; Ông T cấp dưỡng nuôi con 15.000.000 đồng/tháng/2 con và tăng thêm 5% sau mỗi năm cho đến khi hai trẻ Gia T và Gia T lần lượt đủ 18 tuổi.

Ông Phạm Duy T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do các bên tự thoả thuận. Nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.

Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì trên cơ sở lợi ích của con, người không trực tiếp nuôi con hoặc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không dược cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con khi có yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân tổ chức (cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em...), Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

1.3. Về tài sản chung: Ông T và bà K tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

1.4. Về nợ chung: Không có nên Tòa án không xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Phạm Duy T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng, ông T đã nộp theo theo Biên lai thu tiền tạm ứng số 0009888 ngày 10/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T. Ông T đã nộp đủ án phí.

Ông T còn phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng.

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn ông Phạm Duy T, bị đơn bà Tsằn Chi K không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 276/2018/ST-HNGĐ ngày 30/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:276/2018/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về