Bản án 28/2017/HSST ngày 19/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG PHÚ - TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 28/2017/HSST NGÀY 19/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 19/7/2017, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 28/2017/HSST ngày 27/6/2017 đối với:

*Bị cáo: Nguyễn L (tên gọi khác: Lúa), sinh năm 1994 tại BL; dân tộc: Kinh; 

Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 5/12; con ông Nguyễn Tấn S, sinh năm 1959 và bà Lý Hồng S, sinh năm 1963, có 04 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1990, bị cáo chung sống như vợ chồng với Nguyễn Kiều C và có 01 con là Nguyễn Hồng N, sinh năm 2016

HKTT: Tổ 5, khu phố SĐ, phường TX, thị xã ĐX, tỉnh Bình Phước;

Chỗ ở hiện nay: : Tổ 5, khu phố SĐ, phường TX, thị xã ĐX, tỉnh Bình Phước;

- Tiền sự: Bị cáo có 01 tiền sự. Ngày 08/02/2010, bị Chủ tịch UBND thị xã ĐX, tỉnh BP ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi "Trộm cắp tài sản", chấp hành xong ngày 30/12/2011.

- Tiền án: Bị cáo có 02 tiền án.

+ Ngày 19/3/2013, bị Tòa án nhân dân thị xã ĐX, tỉnh BP xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt.

+ Ngày 26/5/2014, bị Tòa án nhân dân thị xã ĐX, tỉnh BP xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt.

- Nhân thân:

+ Ngày 18/4/2017, bị Tòa án nhân dân huyện PG, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản".

+ Ngày 25/5/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã ĐX, tỉnh BP xử phạt 04 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản". Tổng hợp hình phạt với bản án số 16/2017/HSST ngày 18/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện PG, tỉnh BD thành hình phạt chung là 07 năm 06 tháng tù. Bị can đang bị tạm giam, chờ thi hành án.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã ĐX, tỉnh Bình Phước.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Trần Trung K, sinh năm 1975 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố BK thị trấn TP, huyện ĐP, tỉnh BP.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Trần Hữu T, sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: tổ 2, khu phố PT, phường TP, thị xã ĐXi, tỉnh BP.

Hiện Trần Hữu T đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã ĐX, tỉnh BP.

NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP, tỉnh BP truy tố về hành vi phạm tội như sau:
 
Khoảng 02 giờ 00 ngày 12/10/2016, Trần Hữu T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 93P1 - 161.82 chở Nguyễn L lưu thông dọc tuyến đường ĐT 741 tìm nhà dân có sơ hở để vào trộm cắp tài sản. Khi đi đến địa phận khu phố BK, thị trấn TP, huyện ĐP, tỉnh BP phát hiện nhà ông Trần Trung K đang xây dựng, chưa có cửa phụ nên cả hai dừng xe lại. T đứng ngoài cảnh giới, L đi vào nhà lấy trộm được 01 điện thoại di động hiệu Philips, màu đen rồi đem về nhà L ở tổ 5, khu phố SĐ, phường TX, thị xã ĐX cất giấu. Ngày 16/10/2016, T và L bị Cơ quan CSĐT Công an thị xã ĐX bắt về hành vi "Trộm cắp tài sản", trong số vật chứng thu giữ có liên quan đến các vụ "Trộm cắp tài sản" xảy ra trên địa bàn huyện PG, tỉnh BD nên Cơ quan CSĐT Công an thị xã ĐX, chuyển giao số vật chứng này cho Cơ quan CSĐT Công an huyện PG điều tra theo thẩm quyền. Quá trình làm việc với Cơ quan CSĐT Công an huyện PG, T và L khai nhận hành vi "Trộm cắp tài sản" xảy ra trên địa bàn huyện ĐP nên Cơ quan CSĐT Công an huyện PG chuyển giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện ĐP điều tra theo thẩm quyền (bút lục 09, 10, 19, 20). Vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Philips, màu đen; Model S398.
 
Theo Bản kết luật định giá tài sản số 18 ngày 16/3/2017, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện ĐP, kết luận: Tại thời điểm bị chiếm đoạt 01 (một) điện thoại di động hiệu Philips, màu đen có giá trị là 1.200.000 đồng (bút lục 31, 32).
 
Tại bản cáo trạng số 27/CTr -VKS ngày 27/6/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP, tỉnh BP đã truy tố bị cáo Nguyễn Lụa về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 138 Bộ luật hình sự.
 
Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP, tỉnh BP thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:
 
Tuyên bố bị cáo Nguyễn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
 
Áp dụng khoản 1, Điều 138; điểm p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 33, Điều 45 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Nguyễn L từ 02 năm 6 tháng đến 03 năm tù.
 
Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 76 Bô luật tố tụng hình sự tuyên trả lại cho anh Trần Trung K 01 điện thoại di động hiệu Philips, màu đen; Model S398.
 
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
 
XÉT THẤY
 
Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Lụa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình:
 
Xét lời khai nhận của bị cáo Nguyễn L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm xảy ra vụ án cùng các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vì muốn có tiền tiêu xài nên ngày 12/10/2016 bị cáo Nguyễn L đã cùng với Trần Hữu T có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động hiệu Philips, màu đen; Model S398 của anh Trần Trung K tại khu phố BK, thị trấn TP, huyện ĐP, tỉnh BP. Tài sản chiếm đoạt có giá trị 1.200.000 đồng. Trước đó đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục trộm cắp tài sản. Như vậy, hành vi mà bị cáo Nguyễn L thực hiện đã đủ yếu tố cầu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
 
Hành vi mà bị cáo Nguyễn L đã thực hiện là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo Nguyễn L thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bị cáo Nguyễn L ý thức được việc trộm cắp tài sản là trái pháp luật và bị pháp luật nghiêm trị nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải xử bị cáo Nguyễn L mức án nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.
 
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn đã được thu hồi để trả lại cho người bị hại, hiện bị cáo có con nhỏ; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2, Điều 46 Bộ luật hình sự.
 
Hiện bị cáo L đang thi hành bản án số 55/2017/HSST ngày 25/5/2017 của Tòa án nhân dân Thị xã ĐX, tỉnh BP với mức hình phạt là 7 năm 6 tháng tù nên cần áp dụng Điều 51 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt với bản án này.
 
Đối với Trần Hữu T, do tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng, T chưa có tiền án, tiền sự gì về hành vi chiếm đoạt. Hành vi không cấu thành tội phạm, cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Phú đã tách ra lập hồ sơ xử lý hành chính, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
 
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự cần trả lại cho người bị hại Trần Trung K 01 điện thoại di động hiệu Philips, màu đen; Model S398.
 
Đối với xe mô tô biển kiểm soát 93P1-161.82, điện thoại di động do Trần Hữu T sử dụng để liên lạc với Nguyễn L trong quá trình trộm cắp đã được xử lý tại bản án số 55/2017/HSST ngày 25/5/2017 của Tòa án nhân dân thị xã ĐX, tỉnh BP, nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.
 
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Trần Trung K không yêu cầu gì và có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xem xét.
 
Quan điểm của Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP, tỉnh BP phiên tòa về phần áp dụng pháp luật, xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
 
Quan điểm của Đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa về phần hình phạt đề nghị xử phạt bị cáo từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù là quá nghiêm khắc không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
 
Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn L phải nộp theo quy định của pháp luật.
 
Bởi các lẽ trên;
 
QUYẾT ĐỊNH
 
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
 
Áp dụng khoản 1, Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2, Điều 46; Điều 33; Điều 45 Bộ luật hình sự:
 
Tuyên phạt bị cáo Nguyễn L 01 (một) năm tù.
 
Áp dụng Điều 51 Bộ luật hình sự: Tổng hợp với hình phạt 07 năm 06 tháng tù tại bản án số 55/2017/HSST ngày 25/5/2017 của Tòa án nhân dân Thị xã ĐX, tỉnh BP. Hình phạt chung bị cáo Nguyễn L phải chấp hành là: 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2016.
 
2. Về xử lý vật chứng:
 
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tuyên trả lại cho người bị hại Trần Trung K 01 điện thoại di động hiệu Philips, màu đen; Model S398.
 
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
 
Buộc bị cáo Nguyễn L phải nộp 200.000 đồng.
 
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kề từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2017/HSST ngày 19/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:28/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Phú - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về