Bản án 28/2018/HNGĐ-ST ngày 14/06/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 28/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 14 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 51/2018/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2018 về tranh chấp ly hôn và tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2018/QĐXX-ST ngày 08 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2018/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Kim N, sinh năm 1995;

Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần Trung D, sinh năm 1992;

Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 02 năm 2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Lê Thị Kim N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh D tự tìm hiểu nhau một thời gian và được gia đình 2 bên tổ chức lễ cưới vào năm 2016, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh vào ngày 21 tháng 01 năm 2016. Thời gian đầu vợ chồng chị chung sống hạnh phúc, đến tháng 11 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh D thường xuyên đánh bạc, uống rượu, không lo làm ăn chăm sóc vợ con, anh D có quan hệ với người phụ nữ khác ở bên ngoài, vợ chồng chung sống tính tình không hợp nhau, thường xuyên gây gỗ nhau. Chị và anh D ly thân từ tháng 11 năm 2017 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị yêu cầu ly hôn với anh Trần Trung D.

Về con chung: Chị và anh D có một người con tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2017. Hiện tại con chung đang chung sống với chị. Nay ly hôn, chị yêu cầu được nuôi con chung, chị không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị N trình bày không có nên không xem xét giải quyết.

Đối với bị đơn- anh Trần Trung D Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý, thông báo kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần nhưng anh D không đến để trình bày theo yêu cầu của Tòa án cũng như không tham dự phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử mặc dù Công an xã T xác nhận anh vẫn còn hộ khẩu ở địa phương, anh vẫn đi đi về về nhà nhưng cố tình vắng mặt không lý do. Nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh D theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tham gia phiên Tòa trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử: Thẩm phán, thư ký thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh D đã được tống đạt giấy triệu tâp hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu chưa thấy vấn đề vi phạm tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Kim N, cho chị N được ly hôn với anh Trần Trung D. Áp dụng Điều 81, Điều 82 và Điều 83 giao cháu Trần Lê Gia H, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2017 cho chị N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị N không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

Về nợ chung chị N trình bày không có nên không xem xét giải quyết. Về án phí hôn nhân sơ thẩm chị N phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án do các bên cung cấp, qua kết quả thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Trần Trung D được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh D theo quy định tại Khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị N và anh D trên cơ sở tự nguyện và đi đến hôn nhân từ năm 2016 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T ngày 21-01-2016 nên hôn nhân của chị N và anh D là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị N có đơn xin ly hôn với anh D. Quá trình xác minh cho thấy, việc anh D thường xuyên đánh bạc, uống rượu, vợ chồng anh chị thường xuyên gây gỗ nhau là có, hiện tại cả hai anh chị đã ly thân từ tháng 11 năm 2017 cho đến nay. Trong thời gian ly thân cả hai cũng không có giải pháp khắc phục hàn gắn tình cảm vợ chồng. Mặt khác, anh D không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa, cố tình vắng mặt không đến, điều đó chứng tỏ anh không có thiện chí để hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị N.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị N và anh D đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N, cho chị N được ly hôn với anh D là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị N và anh D có 01 con chung tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2017. Nay ly hôn chị N yêu cầu được nuôi cháu H. Hội đồng xét xử xét thấy cháu H hiện còn nhỏ tuổi, cần sự chăm sóc và giáo dục của người mẹ và hiện tại cháu H đang sống chung với chị N, do vậy cần giao cháu H cho chị N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn, chị N không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con. Dù Hội đồng xét xử đã giải thích quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn cho chị N nghe nhưng chị N vẫn giữ nguyên ý kiến không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung do vậy nên ghi nhận.

Anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung: Chị N xác định chị và anh D chung sống không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị N xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về án phí: Chị N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Kim N với anh Trần Trung D.

Chị Lê Thị Kim N được ly hôn với anh Trần Trung D.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Lê Gia H, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2017 cho chị Lê Thị Kim N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Trần Trung D không phải cấp dưỡng nuôi con do chị N không yêu cầu.

Anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Lê Thị Kim N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Lê Thị Kim N trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Chị Lê Thị Kim N phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm Hôn nhân và gia đình, khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0021296 ngày 23 tháng 02 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Chị N đã nộp xong tiền án phí hôn nhân sơ thẩm Anh Trần Trung D không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Chị N có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Anh D có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2018/HNGĐ-ST ngày 14/06/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:28/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về